Tịnh Độ
Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
phần
1
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong, Trịnh Vân
và Huệ Trang
Tập 01
Thưa chư vị
pháp sư, chư vị đại đức, chư vị
đồng học, xin hăy ngồi xuống.
Ngày hôm nay nhằm tiết
Thanh Minh Âm lịch, chúng tôi chọn ngày hôm nay để bắt
đầu giảng Tịnh Độ Đại Kinh Giải
Diễn Nghĩa. Đối với mọi người, danh
xưng này dường như rất xa lạ, nhưng các vị
đồng tu đă lâu trong nhà Phật biết Tịnh
Độ Đại Kinh là kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô
Lượng Thọ hiện thời có chín phiên bản khác
nhau, bản được chúng tôi chọn lựa chính là bản
hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư. Sắp
theo thứ tự triều đại trước sau, bản
này là bản cuối cùng, là bản thứ chín. “Giải” (解) là chú giải, do đệ tử cụ
Hạ là lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chú giải. Duyên khởi này cũng rất chẳng
thể nghĩ bàn! Trong giáo pháp Đại Thừa, cũng
như trong Phật môn, [mọi người] đều cảm
thấy kinh Vô Lượng Thọ rất hy hữu. V́ sao? V́
thuở đức Thế Tôn tại thế, giảng
kinh, dạy học suốt bốn
mươi chín năm; trong bốn mươi chín năm, Ngài
đă giảng khá nhiều kinh luận, [các kinh luận khác]
lăo nhân gia chỉ giảng một lần, chẳng hề giảng
trùng lặp, chỉ riêng kinh Vô Lượng Thọ được
giảng trùng lặp mấy lượt. Đối với
sự phiên dịch tại Trung Quốc, từ Dịch Kinh
Mục Lục, chúng ta thấy kinh này có mười hai bản
dịch, được phiên dịch nhiều lần nhất.
Từ triều Hán cho đến triều Tống, trong ṿng
tám trăm năm, dịch mười hai lần. Lẽ
đương nhiên, nếu cùng một bản gốc, tuy
có nhiều bản dịch, đương nhiên văn tự
trong các bản dịch ấy khác nhau, nhưng nội dung chắc
chắn là đại đồng tiểu dị. Như kinh
Kim Cang có sáu bản dịch, từ Đại Tạng Kinh, chúng
ta có thể thấy sáu bản dịch ấy có cùng một nguyên
bản (bản gốc), cũng có nghĩa là đức Thế
Tôn chỉ giảng [kinh Kim Cang] một lần. Kinh Vô Lượng
Thọ rất lạ lùng, những bản dịch sai biệt
rất lớn. Chỗ rơ ràng nhất, mà cũng là phần trọng
yếu nhất trong kinh này, chính là bổn nguyện của A
Di Đà Phật. Hiện tại, chỉ c̣n lại năm bản
trong mười hai bản dịch, đă thất truyền
bảy bản. Hiện thời, trong Đại Tạng
Kinh có mục lục [ghi tựa đề của các bản
dịch ấy], nhưng không có văn bản. Đây là chuyện
rất đáng tiếc nuối!
Trong
năm bản dịch gốc c̣n được lưu truyền,
hai bản ghi bốn mươi tám nguyện, hai mươi
bốn nguyện cũng được ghi trong hai bản,
c̣n bản dịch đời Tống chép ba mươi sáu
nguyện, sai biệt quá lớn! Nếu bảo nguyên bản
chỉ có một loại, chắc chắn không thể nào có
sự sai biệt này. Đó là chuyện chẳng thể xảy
ra được! Do vậy, từ chỗ có ba loại bổn
nguyện sai biệt, cổ đại đức phán
đoán: Đối với bảy bản dịch đă thất
truyền, do không biết nội dung [nên chẳng dám bàn tới],
từ năm bản dịch này, khẳng định đức
Thế Tôn tối thiểu giảng [kinh Vô Lượng Thọ]
ba lần. Ba lượt nói bổn nguyện của A Di
Đà Phật, đức Thế Tôn nói các điều nguyện
không giống nhau, nên mới có sai biệt. Dự đoán này
rất hợp la-tập (logic), bọn chúng ta cũng đều
có thể chấp nhận. Nhiều lần tuyên giảng đâu
phải dễ! Nếu không phải là hết sức trọng
yếu, đức Thế Tôn chẳng thể tuyên giảng
nhiều lượt. Trong Đại Tạng Kinh, gần
như chẳng t́m được dấu vết [những
bộ kinh khác] được tuyên giảng nhiều lần.
Sở dĩ, thuở c̣n tại thế, đức Phật
đă tuyên giảng bộ kinh này nhiều lần, v́ đây là
một bộ kinh vô cùng trọng yếu. Nhất là chúng ta
thấy Thiện Đạo đại sư đă nói hai
câu, ngài Thiện Đạo là người đời Đường,
theo truyền thuyết Ngài là A Di Đà Phật tái lai, lời
ngài Thiện Đạo nói chính là lời A Di Đà Phật nói!
Ngài dạy: “Như Lai sở
dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di Đà bổn
nguyện hải” (Sở dĩ đức Như Lai xuất
hiện trong thế gian chỉ v́ muốn nói biển bổn
nguyện của Phật Di Đà), có nghĩa là nói: Thập
phương chư Phật thị hiện trong thế gian
[chỉ v́ nguyên nhân này]. Qua phẩm Hoa Tạng Thế Giới
và phẩm Thế Giới Thành Tựu của kinh Hoa Nghiêm,
chúng ta thấy vũ trụ quan của nhà Phật (Triết
Học hiện đại bảo [nội dung những
điều được nói trong hai phẩm kinh trên
đây] là vũ trụ quan nhà Phật) quá lớn! Các nhà thiên
văn học hiện thời chưa đạt tới cảnh
giới này. Nói theo Phật giáo, sự quan sát và lư giải của
các nhà thiên văn học vẫn chưa thể thoát khỏi
thế giới Sa Bà.
Chúng tôi học
kinh giáo nhiều năm như thế, thấy hầu hết
các vị đại đức tiền bối đă sớm
cho rằng một đơn vị thế giới nói trong
kinh Phật là địa cầu. [Kinh nói] mặt trời
xoay ṿng quanh núi Tu Di (Sumeru), rất nhiều người hiểu
lầm, nghĩ núi Hỷ Mă Lạp Nhă (Himalaya) là Tu Di Sơn.
Sau này, khoa học chứng minh địa cầu h́nh tṛn nên
gọi là “địa cầu”, chẳng khác ǵ các ngôi sao trên
trời, cũng không thể coi là quá lớn được!
Địa cầu xoay quanh mặt trời, chứ không phải
mặt trời xoay quanh địa cầu. Họ biết
có Thái Dương Hệ (Solar system), mặt trời xoay
quanh hệ Ngân Hà (Galaxy), nhưng chúng ta không có cách nào xoay
chuyển quan niệm này! Tu Di Sơn ở đâu? Chắc
chắn Tu Di Sơn chẳng ở trên địa cầu. Phật
pháp h́nh dung Tu Di Sơn bằng danh xưng Diệu Cao, chúng
ta có thể hiểu chữ Cao, nhưng Diệu rất khó
hiểu. Chúng tôi vốn nghĩ [một đơn vị thế
giới trong kinh Phật] là một cơi Phật, tức là phạm
vi giáo hóa của một vị Phật, giống như các
khoa học gia hiện thời bảo là một “hệ Ngân
Hà”. Kể từ năm 1986, tôi kết duyên, quen biết lăo
cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Thuở ấy, hai người
chúng tôi vô cùng vui sướng, v́ hoằng dương bản
hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư vốn
chỉ có hai người bọn tôi. Cụ giảng bộ
kinh này trong nước, tôi giảng bộ kinh này tại hải
ngoại. Chúng tôi gặp mặt, cụ Hoàng nêu lên vấn
đề này, cho tôi biết: Một đơn vị thế
giới trong kinh Phật chẳng phải là Thái Dương
Hệ, mà là hệ Ngân Hà. Trung tâm của hệ Ngân Hà là “hắc
động” (black hole), Tu Di Sơn phải là hắc động.
Sự cao lớn của hắc động chúng ta có thể
hiểu được, nhưng cho đến hiện thời,
vẫn chưa có ai có thể lư giải t́nh trạng thật
sự của hắc động, chỉ biết là nó có sức
hút rất lớn, ngay cả ánh sáng cũng không có cách nào
xuyên qua, đều bị nó hút mất. Nó là cốt lơi của
hệ Ngân Hà, tất cả các tinh cầu đều xoay
quanh cái lơi này. Cổ nhân Trung Quốc gọi nó là Hoàng Cực
(Ecliptic Pole), hệ Ngân Hà mới
là một đơn vị thế giới. Một ngàn đơn
vị thế giới gọi là một “tiểu thiên thế
giới”. Đó chính là một ngàn hệ Ngân Hà, một tiểu
thiên thế giới đấy! Lại lấy tiểu thiên
thế giới làm đơn vị, một ngàn tiểu
thiên thế giới gọi là “trung thiên thế giới”, một
ngàn trung thiên thế giới gọi là một “đại thiên
thế giới”. Một đại thiên thế giới có
bao nhiêu hệ Ngân Hà? Mười ức hệ Ngân Hà. Các nhà
thiên văn học hiện tại chưa thể quan sát
[điều này]; đây là khu vực giáo hóa của một
đức Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói có vô lượng vô biên
thế giới như vậy trong vũ trụ. Nói đến
“thế giới Hoa Tạng” th́ thế giới Hoa Tạng
giống như một cao ốc có hai mươi tầng,
thế giới Sa Bà và thế giới Cực Lạc đều
thuộc tầng thứ mười ba. Lại chẳng biết
có bao nhiêu thế giới giống như thế giới Hoa
Tạng! Đấy là thế giới quan của Phật
pháp, thế giới đồ sộ, quả thật chẳng
thể nghĩ bàn được!
Đức
Phật xuất hiện trong thế gian, khu vực giáo hóa của
mỗi vị Phật nhỏ nhất là một đại
thiên thế giới. Có trường hợp là hai, ba đại
thiên thế giới, hay năm, sáu đại thiên thế giới,
mười mấy đại thiên thế giới cũng
có; Phật cũng có phước báo to hay nhỏ khác nhau!
Nguyên nhân do đâu? Trong khi tu nhân, tâm lượng khác nhau, cho
nên [khi thành Phật] cảm quả cũng chẳng giống
nhau. Trừ điều này ra, chẳng có ǵ khác biệt.
Đây là nói “duyên hóa độ chúng sanh” không giống nhau. V́
vậy, người học Phật phải rộng kết
pháp duyên với hết thảy chúng sanh; trong tương lai,
quư vị thành Phật sẽ độ người khác
đông đảo. Rộng kết pháp duyên rất quan trọng!
Đức Phật thị hiện trong các cơi Phật khác
nhau đều do có duyên, chẳng thể nói là “không có duyên”,
đều có duyên, duyên ấy rất phức tạp. Dùng
phương pháp ổn thỏa, thích đáng, đơn giản,
dễ dàng, nhanh chóng nào để giúp người khác có thể
trở về tự tánh? Trở về tự tánh là thành Phật
viên măn, trở về nguồn cội, dùng phương pháp
nào? Dùng phương pháp Niệm Phật của Tịnh
Độ; do vậy, ngài Thiện Đạo nói: “Duy thuyết Di Đà bổn nguyện
hải” (chỉ để nói bổn nguyện của Phật
Di Đà). Kinh ấy là kinh ǵ? Kinh Vô Lượng Thọ. V́
thế, kinh Vô Lượng Thọ được gọi kinh
bậc nhất trong Tịnh Tông. Tịnh Độ Tông thật
đơn giản, kinh điển để làm căn cứ
gồm năm thứ. Thuở ấy, đức Thế Tôn
giảng ba thứ, tức là ba bộ kinh, [thường gọi
là] Tịnh Độ Tam Kinh: Vô Lượng Thọ Kinh, A Di
Đà Kinh và Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. Phân
lượng cũng chẳng lớn. Nếu chỉ là kinh
văn của ba bộ kinh, tức là chánh kinh không có phần
chú giải, in chung lại thành một quyển mỏng tanh,
phân lượng rất ít, đơn giản, dễ dàng,
nhưng thành tựu vô cùng thù thắng. Thiện Đạo
đại sư cho chúng ta biết điều này.
Chúng ta phải
tin tưởng, gặp được pháp môn này chính là
cơ duyên hy hữu trong một đời này! Quư vị có
được cơ hội này, có thể trở về tự
tánh, có thể viên thành Phật đạo, khó thể gặp
gỡ cơ hội này. Bởi lẽ, “thân người khó được, Phật pháp khó gặp”.
Chúng ta được làm thân người, gặp gỡ Phật
pháp, lại gặp được pháp môn thù thắng khôn sánh
trong Phật pháp, phải trân quư cơ duyên này. Pháp môn này c̣n
gọi là “pháp khó tin”, do phương pháp quá đơn giản,
quá dễ dàng, nên rất nhiều vị Bồ Tát chẳng
tin! Nói theo Lư, phải hết vọng mới có thể quay về
nguồn được, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều
chẳng tách ĺa nguyên tắc này. “Vọng”
là phiền năo. Ba loại phiền năo lớn là Vô Minh phiền
năo, Kiến Tư phiền năo, và Trần Sa phiền năo;
đấy là ba loại lớn. Đoạn Kiến Tư
phiền năo, lục đạo luân hồi chẳng c̣n nữa.
Bởi lẽ, lục đạo chẳng thật, giống
như một giấc mộng. Quư vị chưa thoát khỏi
lục đạo, đang nằm mộng, vẫn chưa tỉnh
mộng. Khi nào quư vị buông Kiến Tư phiền năo xuống,
kinh Hoa Nghiêm gọi Kiến Tư phiền năo là chấp
trước, đối với hết thảy pháp thế gian
và xuất thế gian chẳng c̣n chấp trước, buông
Kiến Tư phiền năo xuống, quư vị bèn chứng quả
A La Hán. A La Hán đă tỉnh, từ trong lục đạo tỉnh
giấc mộng lớn bèn là A La Hán, lục đạo chẳng
c̣n nữa! Lục đạo chẳng c̣n, đă tỉnh; v́
sao quư vị vẫn c̣n ở trong mộng? Quư vị c̣n có
phân biệt, c̣n có vọng tưởng, [những thứ này]
vẫn là phiền năo, nhẹ hơn Kiến Tư phiền
năo một tí, nhưng vẫn c̣n. Nếu phân biệt cũng
buông xuống, chẳng c̣n phân biệt nữa, không chỉ là
chẳng phân biệt, mà vọng tưởng cũng buông xuống.
Vọng tưởng là ǵ? Tôi thường gọi nó là “khởi
tâm, động niệm”. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới
sáu trần, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm.
Khởi tâm động niệm đều không có, đương
nhiên chẳng có phân biệt, chấp trước, quư vị
thật sự tỉnh mộng. Hễ tỉnh th́ tứ
thánh pháp giới đều không có, tức là mười
pháp giới chẳng có. Mười pháp giới bao gồm lục
đạo, dưới là lục đạo, trên là tứ
thánh, tứ thánh là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật; Phật
[trong tứ thánh pháp giới] cũng chẳng thật! Phải
biết điều này! Đừng nên chấp trước,
chớ nên phân biệt! Sau khi buông xuống những điều
này, chẳng thấy tứ thánh pháp giới nữa, quư vị
thật sự tỉnh khỏi mộng cảnh. Khi tỉnh
ấy, vẫn c̣n có tướng cảnh giới, vẫn c̣n
có tướng, tướng ǵ vậy? Chúng ta thường gọi
nó là Nhất Chân pháp giới, là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của
chư Phật Như Lai. Chúng ta nói thế giới Cực Lạc,
kinh Hoa Nghiêm nói thế giới Hoa Tạng, chúng đều
là những cơi Thật Báo của Như Lai. Nói tới cơi Thật
Báo của Như Lai, quư vị phải nhớ: Nó là cơi Thật
Báo của chính ḿnh, Tự - Tha bất nhị, Tha là chư Phật
Như Lai, thật sự chẳng hai!
Do vậy,
trong mấy năm gần đây, chúng tôi cực lực
đề xướng: Phật sự sử dụng trong Tịnh
Tông là Tam Thời Hệ Niệm do thiền sư Trung Phong
biên soạn, Ngài là bậc đại đức trong Thiền
Tông. Quư vị thấy Ngài biên soạn nghi thức Hệ Niệm
hoàn toàn dùng [giáo nghĩa] Tịnh Độ, cơi âm lẫn
dương gian đều được lợi ích. Lăo
nhân gia nói rất rơ ràng: “Tự
tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”, Di Đà ở
đâu? Di Đà là tự tánh, Tịnh Độ cũng là tự
tánh; tâm và tánh là một, chẳng hai. Nếu quư vị thật
sự hiểu rơ, sẽ biết chư Phật Như Lai và
hết thảy chúng sanh có mối quan hệ mật thiết
với bản thân chúng ta. Nói tới “quan hệ” th́ mối
quan hệ ấy thuộc loại luân lư, tức là quan hệ
nói theo phương diện luân lư. Kinh giáo Đại Thừa
giảng quan hệ rất thấu triệt, giảng đến
mức viên măn rốt ráo: Trọn khắp pháp giới hư
không giới, trên là chư Phật, dưới là chúng sanh, có
cùng một Thể với chính ḿnh, chẳng phải là “một
nhà”, mà là “một Thể”. Nói tới mối quan hệ này.
Do vậy, ḷng yêu thương ấy được gọi
là Vô Duyên Đại Từ, Từ là ḷng yêu thương,
quan tâm, Vô Duyên là chẳng có điều kiện; Đồng
Thể Đại Bi, Bi là thương xót, thương xót hết
thảy chúng sanh mê mất tự tánh. Phải biết: Họ
và chúng ta là một Thể, chẳng phải là người
ngoài, mà là Đồng Thể. Vô Duyên là giúp đỡ họ
vô điều kiện. V́ thế, trong nhân gian có ḷng Chân Ái (ḷng
yêu thương chân thật), Chân Ái là ḷng yêu thương của
Phật, Bồ Tát, là đại từ đại bi. Thật
đấy! Bậc giác ngộ th́ có, c̣n kẻ mê mất tự
tánh chẳng phải là không có, nhưng kẻ ấy bị mê,
do mê nên ḷng Chân Ái bị biến chất. Do vậy, trong kinh
đức Phật gọi ḷng yêu thương ấy (ḷng yêu
thương của kẻ mê mất chân tánh) là Hữu Ái Duyên
Từ, như trong thế gian hiện thời, ḷng
thương yêu của cha mẹ đối với con cái gọi
là Ái Duyên, có ḷng từ bi, nhưng từ bi đối với
kẻ có quan hệ máu mủ, ruột thịt, bị chi phối
bởi mối quan hệ này. Lại có Chúng Sanh Duyên Từ Bi,
tâm lượng lớn hơn một chút, yêu thương
chính ḿnh, mà cũng có thể yêu thương người
khác. Câu “phàm thị nhân, giai tu
ái” (phàm là người, đều phải yêu) trong Đệ
Tử Quy chính là Chúng Sanh Duyên Từ Bi. Bồ Tát có Pháp Duyên Từ
Bi, lại cao hơn một tầng nữa, các Ngài liễu
giải chân tướng sự thật. Thật sự
đạt đến minh tâm kiến tánh, đại triệt
đại ngộ, đó là ḷng từ bi của Phật. [Ḷng
từ bi ấy] chẳng có điều kiện, đấy
mới là Chân Ái. Những ḷng Ái khác có điều kiện,
c̣n ḷng Ái này chẳng có điều kiện. Chúng ta hiểu
rơ đạo lư này th́ học Phật mới t́m được
người thân thật sự! Chúng ta giống trẻ nhỏ
mê mất phương hướng, thật sự t́m
được cha mẹ, t́m được người
quan tâm, yêu thương chúng ta rồi. Những người
ấy là chư Phật, Pháp Thân Bồ Tát, các Ngài thật sự
có thể giúp chúng ta phá mê khai ngộ, trở về tự
tánh, công đức viên măn. Bởi lẽ, chỗ khác nhau giữa
chúng sanh và Phật là mê hay ngộ; trừ mê và ngộ ra, chẳng
có ǵ khác nhau! Trong giáo pháp Đại Thừa, quư vị càng
đọc, càng hiểu rơ, càng minh bạch, đọc đến cuối cùng, quư vị
hoát nhiên hiểu rơ, “nguyên lai
đương hạ”, tức là ở ngay nơi này,
ngay trong lúc này!
Tịnh Tông
thật sự khó tin, đặc biệt là đối với
những phần tử tri thức. Tôi học Phật là do
tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu. Lúc trẻ
cũng theo học trong nhà trường, chịu ảnh
hưởng của các giáo viên, nghĩ Phật giáo là tôn
giáo, là mê tín, lại c̣n là đa thần giáo (polytheism), phiếm
thần giáo (pantheism) trong các tôn giáo, là một tôn giáo thuộc
loại thấp. Tôn giáo bậc cao chỉ nói tới một
vị chân thần. Qua biểu hiện, Phật giáo thật
sự là mê tín, thuở ấy, tôi chẳng liễu giải.
Trong xă hội hiện thời, kẻ chẳng liễu giải
càng nhiều! Tôi học Triết Học với thầy
Phương. Trong khóa học cuối cùng, thầy giảng Triết
Học trong kinh Phật, tôi nói: “Phật giáo là tôn giáo, mê tín,
là phiếm thần giáo, kiếm đâu ra Triết Học?”
Thầy bảo tôi: “Anh không biết,
tuổi anh c̣n trẻ, Thích Ca Mâu Ni Phật là một triết gia vĩ đại nhất
trên thế giới. Triết Học trong kinh Phật là đỉnh
cao nhất trong Triết Học trên toàn thể thế giới”. Lúc ấy, thầy bảo tôi như thế
này: “Học Phật là sự
hưởng thụ tối cao trong đời người”.
Trong khóa học ấy, tôi tiếp nhận Triết Học
từ kinh Phật như vậy, mới thay đổi
quan niệm sai lầm trong quá khứ, nhận thức Phật
giáo bằng nhăn quan mới. Duyên của tôi rất thù thắng,
sau khi thầy Phương giới thiệu Phật giáo cho
tôi biết, không đầy hai tháng sau, tôi có cơ hội
quen biết Chương Gia đại sư, do một thân
vương Mông Cổ cuối đời Thanh giới thiệu
cho tôi quen biết Chương Gia đại sư. Khi
đó, tôi vừa tiếp xúc Phật pháp, đây cũng là do
thầy Phương từ bi, chỉ cho tôi đường
lối học tập. Thầy nói Phật pháp chẳng ở
trong chùa chiền, ở đâu? Trong kinh điển. Anh muốn
thật sự t́m được Phật giáo, phải t́m từ
kinh điển. Sự hướng dẫn này vô cùng quan trọng,
do vậy, tôi thủy chung cảm tạ ân đức thầy;
bởi lẽ, không có sự chỉ điểm ấy, chúng
tôi sẽ thỉnh giáo người xuất gia. Nhiều kẻ
xuất gia vứt bỏ kinh giáo, chẳng học tập, chẳng
thể thuyết pháp, trong t́nh h́nh ấy, chắc chắn
chúng tôi sẽ hoài nghi, ḷng tin chẳng c̣n nữa! Do cụ
Phương biết [Phật pháp] ở trong kinh điển,
cụ nói thuở xưa, người xuất gia và tại
gia học Phật đều là những bậc học vấn
lỗi lạc, thật sự là đại đức,
đại triết, hiện nay rất hiếm [những
người như vậy].
Sau khi tôi
tiếp xúc Chương Gia đại sư, Ngài dạy tôi
học về Thích Ca Mâu Ni Phật, bảo tôi hăy xem hai tài liệu.
Hai tài liệu ấy ở trong Đại Tạng Kinh, thuở
ấy chưa có bản lưu hành riêng, đó là Thích Ca Phổ
và Thích Ca Phương Chí[1]. Lăo nhân gia rất từ bi: “Anh muốn
học Phật, trước hết, anh phải nhận biết
Thích Ca Mâu Ni Phật, sẽ chẳng đi ḷng ṿng”. Sau khi
đọc xong hai tài liệu ấy, tôi mới biết Thích
Ca Mâu Ni Phật quả thật rất vĩ đại. Nói
theo cách bây giờ, Ngài là nhà giáo dục, chẳng vướng
mắc trong tôn giáo. Xuất thân từ ḍng dơi vua chúa, phụ
thân Ngài là quốc vương. Cổ Ấn Độ thuở
ấy chẳng khác thời Xuân Thu Chiến Quốc của
Trung Hoa cho mấy, đều là có rất nhiều quốc
gia nhỏ. Ngài là vương tử, mười chín tuổi
rời khỏi gia đ́nh, đi tham học. Do vậy, chúng
ta biết Thích Ca Mâu Ni Phật tuổi thanh niên vô cùng hiếu
học, rời khỏi gia đ́nh để cầu học,
cuộc sống rất khổ sở, giống như vị
Tăng khổ hạnh. Ấn Độ [thuở ấy] quả
thật là một nơi tốt đẹp. Thuở ấy,
học thuật trên địa cầu này, đặc biệt
là Triết Học, có thể coi như Ấn Độ
đứng đầu thế giới. Tôn giáo cũng giống
như thế, Ấn Độ là xứ sở tôn giáo, tất
cả các bậc đại đức trong tôn giáo Ngài đều
gặp gỡ, học tập; lại c̣n học hết sức
nghiêm túc, tất cả các học phái Ngài cũng
đều học qua. Khi ấy, phong khí Thiền Định
ở Ấn Độ rất thịnh, bất luận tôn
giáo hay học thuật đều coi trọng Thiền
Định. Tứ Thiền Bát Định nói trong kinh Phật
chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật đề xướng.
Chẳng phải vậy! Tôn giáo lẫn học thuật của
Cổ Ấn Độ đều học những môn này, đương
nhiên, chàng thanh niên Thích Ca Mâu Ni cũng không ra ngoài lệ
ấy.
Thiền
Định có thể đột phá các chiều không gian
(spatial dimensions), cho nên phát hiện lục đạo. Lục
đạo là thật, chẳng giả. Quư vị tu Định
đến một tŕnh độ nhất định, sẽ
thấy giống như họ đă thấy: “Hoàn toàn giống
như các vị đă nói!” Người thấy [những điều
này] nhiều lắm! Phía trên là từ hai mươi tám tầng
trời, phía dưới đến A Tỳ địa ngục,
họ hiểu rành rẽ t́nh trạng trong toàn thể lục
đạo, nhưng nếu hỏi: “Lục đạo do
đâu mà có? V́ sao có lục đạo? Ngoài lục đạo
ở ngoài c̣n có thế giới hay chăng?” Vấn đề
này, không chỉ hết thảy các tôn giáo của Ấn
Độ chẳng có cách nào trả lời, mà những triết
gia Ấn Độ cũng chẳng thể giải đáp.
Thích Ca Mâu Ni Phật tu mười hai năm, đến
năm ba mươi tuổi, thôi học tập, học
mười hai năm, rốt cuộc đă tốt nghiệp,
buông bỏ, tịnh tọa dưới cội cây Tất
Bát La (Pippala) bên bờ sông Hằng, khai ngộ. Cây ấy về
sau được gọi là “Bồ
Đề thụ”. Bồ Đề (Boddhi) có nghĩa là
“giác ngộ”. Ngài đại triệt đại ngộ ở
nơi ấy. Nhập Thiền Định càng sâu hơn,
Thiền Định ǵ vậy? Trong kinh Lăng Nghiêm, Định
ấy được gọi là Thủ Lăng Nghiêm Đại
Định, kinh Hoa Nghiêm gọi Định ấy là Sư Tử
Phấn Tấn tam-muội, đó là kiến tánh; đó cũng
là nói: Thật sự buông “khởi tâm, động niệm” xuống.
Chẳng khởi tâm, không động niệm, bèn khôi phục
tự tánh, mới thật sự hiểu rơ ràng, rành rẽ chân
tướng của vũ trụ và nhân sinh. Lục đạo
luân hồi là chuyện nhỏ nhặt, quá nhỏ bé, thảy
đều hiểu rơ ràng, đương nhiên hết sức
vui sướng, Ngài bèn tường thuật, báo cáo tỉ mỉ
cảnh giới này. Nói với ai? Nói với con người,
người ta nghe chẳng hiểu! Đừng nói người
thế gian chúng ta nghe không hiểu, chư thiên trong hai
mươi tám tầng trời nghe cũng không hiểu; bởi
lẽ, Ngài giảng trong Định. Chúng ta thấy Thích Ca
Mâu Ni Phật tịnh tọa dưới cội Bồ
Đề, đâu biết Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm nơi ấy.
Kinh Hoa Nghiêm là cảnh giới khai ngộ của đức
Thế Tôn. Ngài nói cặn kẽ, nêu bày toàn bộ. Nói trong
bao nhiêu ngày? Theo kinh chép th́ là “hai
thất”, tức mười bốn ngày, cũng có kinh bảo
là giảng trong hai mươi mốt ngày. Chúng ta có thể
không cần quan tâm đến chuyện này, cũng không cần
phải khảo chứng, đừng phân biệt, chấp
trước chuyện này. Tối đa là hai mươi mốt
ngày, giảng trong Định!
Trong Thiền
Định, thời gian và không gian chẳng c̣n nữa. Thời
gian và không gian chẳng c̣n, chúng ta có thể tin chuyện này,
v́ sao? Có chứng minh khoa học! Khoa học chứng minh
như thế nào? Thôi miên rất khoa học! Trong thôi miên, thời
gian và không gian chẳng c̣n nữa! Quư vị thấy: Thôi
miên hai tiếng, người được thôi miên có thể
nhớ được vài đời trong quá khứ. Lúc bị
thôi miên, người ấy có thể tới thiên đường,
mà cũng có thể xuống địa ngục. Quư vị
thấy đó: Đột phá thời gian lẫn không gian! Do
chúng ta biết: Thôi miên cũng là tinh thần phải buông lỏng
hết thảy, buông xuống hết thảy, trong tâm không
có tạp niệm, có cùng một nguyên lư [với Thiền Định].
Công phu Thiền Định càng sâu hơn, thời gian [nhập
Định] càng dài hơn, bảy ngày, hai mươi mốt
ngày, trọn pháp giới hư không giới quả thật
đều có thể thấy rơ rệt, minh bạch. Thật
ra, có cần tốn ngần ấy thời gian hay không? Không
cần! Chỉ trong một niệm! Trong một niệm bèn
thông đạt, hiểu rơ, tùy thuộc quư vị buông xuống
nhiều hay ít. Sai biệt chẳng do công phu cạn hay sâu,
mà do quư vị buông xuống nhiều hay ít. V́ thế, quư vị
muốn dụng công, ngàn muôn phần đừng chấp
trước; buông xuống càng nhiều, tâm quư vị càng thanh
tịnh, càng gần với tự tánh. Trong cuốn [Tu Hoa
Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận] Hoàn Nguyên Quán có nói: “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể”,
tức là càng buông xuống nhiều, càng gần với tự
tánh. Càng gần tự tánh, quư vị càng liễu giải. Sau
khi liễu giải chân tướng, lăo nhân gia xuất Định,
bắt đầu dạy học, v́ sao bắt đầu dạy
học? Tâm từ bi tự nhiên lưu lộ, chẳng có lư
do, không có điều kiện, thấy chúng sanh bèn muốn giúp
họ trở về tự tánh. V́ lẽ ǵ? Họ và ta là một,
không hai. Người giác ngộ biết, kẻ mê chẳng
biết [ta và người] là một Thể. Làm như thế,
dạy suốt bốn mươi chín năm, đức Thế
Tôn viên tịch lúc bảy mươi chín tuổi. Từ
năm ba mươi tuổi bắt đầu dạy học
tới năm bảy mươi chín tuổi; do đó, Ngài
giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn
mươi chín năm.
Chúng ta nh́n
từ chỗ này, Ngài dùng thân phận nào? Mang chức nghiệp
giáo sư, suốt đời dạy học. Dạy ǵ? Hết
thảy các kinh do Phật đă giảng lúc c̣n tại thế
chưa chép thành văn tự, đều chỉ là miệng
nói. Sau khi đức Thế Tôn viên tịch, các học tṛ
đem những ǵ thầy đă dạy, đă nói trong quá khứ
ghi chép lại, đến khi ấy mới trở thành kinh
điển. Ghi chép cũng chẳng phải là chuyện
đơn giản, phải t́m người nhắc lại,
t́m ai? T́m A Nan. A
Văn tự
dùng để kết tập thuở ấy là Phạn
văn, hiện thời rất ít người hiểu cổ
văn Ấn Độ. Kinh điển truyền đến
Trung Quốc bằng tiếng Phạn, thuở ấy, những
lưu học sinh Trung Quốc (những vị cao tăng
sang Thiên Trúc cầu pháp) đến Ấn Độ học
tập cũng học Phạn văn, từ tiếng Phạn
dịch sang tiếng Hán mà có thể chẳng bị sai lầm
ư? Nay chúng ta dịch một bài văn chương từ
tiếng Anh sang tiếng Hán, có thể dịch đúng một
trăm phần trăm hay không? Không thể nào! Nói chung là có
sai lầm. Đừng nói ngôn ngữ ngoại quốc, đối
với cổ văn Trung Quốc, quư vị lấy một
bài văn chương của cổ nhân, t́m vài người,
hay t́m mười người, bảo họ dịch bài ấy
thành văn Bạch Thoại, mười người dịch
khác nhau, rốt cuộc dùng tiêu chuẩn nào [để phán định
đúng sai]? Rất khó nói, điều này có thể khiến
cho người ta tin tưởng [tính chính xác của kinh Phật]
hay chăng? Khi ấy, tôi đă thỉnh giáo tiên sinh
Phương Đông Mỹ chuyện này, làm thế nào để
khiến chúng ta sanh khởi ḷng tin? Thầy Phương hết
sức cảm khái, nói: Người Trung Quốc thời cổ
chẳng giống người Trung Quốc hiện thời.
Người Trung Quốc hiện thời đánh mất
ḷng tự tin dân tộc, nên mới bị lăng nhục lớn
lao như thế, chịu lắm khổ nạn như vậy.
Xưa kia, người Trung Quốc không như vậy, hết
sức tự hào. Kinh điển tiếng Phạn sau khi dịch
sang tiếng Hán, không những ư nghĩa chẳng bị sai lầm,
mà văn tự c̣n đẹp đẽ, bóng bẩy hơn
nguyên văn! Nói cách khác, đă có bản tiếng Hán, có thể
không cần đến bản tiếng Phạn, tự hào
như thế đó! Tại Trung Quốc vào thời Tùy -
Đường, người Trung Quốc thật sự giống
như người Trung Quốc, đâu phải như hiện
thời? Thầy Phương dạy tôi như thế, hóa
giải nỗi nghi vấn của tôi.
Đúng
không? Đúng! Từ xưa tới nay, Trung Quốc quả
thật là một nước lễ nghĩa, là một
nước to lớn mênh mông, măi cho đến đời Thanh,
ḷng tự tin ấy bị mất sạch. Vào cuối đời
Thanh, vào cuối triều đại mới nẩy sanh vấn
đề, rất nhiều nhân tố khiến cho vấn
đề nẩy sanh, sử cận đại đă chép rất
rơ ràng: Chẳng phải là truyền thống Trung Quốc có
vấn đề, mà do người lănh đạo đất
nước thuở ấy là Từ Hy Thái Hậu có vấn
đề. Đúng là “một
người khiến đất nước hưng thịnh,
một người khiến cho quốc gia, dân tộc bị
diệt vong”, liên quan tới một cá nhân quá lớn! Nhà
Thanh từ thuở khai quốc cho đến đời chồng
của bà ta là vua Hàm Phong, Từ Hy Thái Hậu là phi tử của
Hàm Phong, đế vương các đời đều mời
các bậc cao nhân Nho, Thích, Đạo, nói theo danh từ hiện
nay là “chuyên gia, học giả” vào hoàng cung. Hoàng đế dẫn
phi tần, văn vơ đại thần nghe giảng mỗi
ngày, học tập mỗi ngày, thật sự làm! Từ Hy
phế trừ chế độ này; Từ Hy không theo những
bậc đại đức Nho, Thích, Đạo nữa,
không nghe lời họ nữa. Bà ta mê tín, cầu cơ, pḥ
loan, ham chuyện thần tiên, quốc gia đại sự
đều đem thưa hỏi trong đàn cầu cơ. Do
vậy mất nước! Chương Gia đại
sư kể cho tôi biết chuyện này. Đời trước
của ngài Chương Gia là quốc sư của các đời
hoàng đế nhà Thanh; trong tứ đại lạt-ma[2] chỉ ḿnh Ngài có đạo tràng tại
Bắc Kinh. Chương Gia đại sư có trụ sở
tại Bắc Kinh, Ngài thường ở Bắc Kinh để
làm cố vấn cho hoàng thượng. Lăo nhân gia cho tôi biết:
Chuyện xấu do Từ Hy gây ra, bà ta phá hoại chế
độ; người lănh đạo coi rẻ truyền
thống, dần dần ảnh hưởng tới quần
chúng. Nếu chúng ta truy cứu, truyền thống văn hóa
tốt đẹp như thế, v́ lẽ nào mà trở thành
nông nỗi như hiện thời? Đầu mối do Từ
Hy. Chúng ta phải biết yêu mến, phải làm thế nào
để khôi phục [truyền thống văn hóa].
Do vậy,
sau khi chúng tôi hiểu rơ ràng, minh bạch chuyện này, mới
biết Phật pháp thù thắng, càng học càng ham thích, khi ấy,
mới phát hiện, thật sự phát hiện của báu,
phát hiện kinh giáo là món trân bảo thù thắng khôn sánh.
Nhưng trong giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy
trí mạc năng giải” (Phật pháp không có người
nói, th́ tuy có trí vẫn chẳng thể hiểu được).
Hiện thời, sách vở th́ có, nhưng thiếu người
truyền thừa. Trong thời Dân Quốc, đúng là đời
sau thua đời trước, đă đến thuở mạt.
Trong thời Kháng Chiến, nói chung c̣n có mười mấy
vị xuất gia và tại gia [hoằng dương Phật
pháp]. Sau thời Kháng Chiến, ngày càng ít, bậc đại
đức hiếm hoi, thiếu người kế tục,
đặc biệt là trong năm mươi năm gần
đây. Chúng ta biết: Phật giáo thật sự hoàn toàn chẳng
có diện mục. Tại Đài Loan, thật sự giảng
kinh, dạy học chỉ có ḿnh thầy Lư. Cụ mở một
liên xă tại Đài Trung, trong liên xă mở lớp dạy học.
Cụ mở mười mấy lớp đều là dạy
truyền thống văn hóa giống như giáo dục xă hội
hoặc lớp huấn luyện bổ túc, không nhận học
phí. Bản thân thầy Lư lắm tài nhiều nghề, biết
rất nhiều thứ, có năng lực dạy dỗ. Cụ
dạy học tại Đài Trung ba mươi tám năm, tịch
năm chín mươi bảy tuổi. Cụ giảng kinh tại
Đài Trung suốt ba mươi tám năm chẳng gián
đoạn, nhưng mỗi tuần chỉ giảng một
buổi, ấn định buổi học nhằm ngày thứ
Tư, thời gian cố định, nơi chốn cố
định. Do vậy, cụ chẳng cần tuyên truyền,
thứ Tư mỗi tuần đến Từ Quang Đồ
Thư Quán ở Đài Trung, nhất định thấy cụ
giảng kinh ở đó, mỗi tuần một lần. Cụ
dạy lũ học sinh chúng tôi là những học sinh trẻ
tuổi học giảng kinh cũng là mỗi tuần một
lần nhằm ngày thứ Sáu, dạy chúng tôi giảng kinh;
c̣n dạy cổ văn th́ như một lớp học nhỏ
của nhóm ông Giang Dật Tử, họ học thi từ với
cụ. Ngoài ra, c̣n có nhiều khoa mục, nhưng chính thầy
t́m không ra thời gian, phải mời giáo viên từ bên ngoài
đến dạy. Do là giáo dục xă hội, nên xét về
điểm này, rất giống với cách thức dạy
dỗ thời Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đối
với Phật giáo trên toàn thế giới hiện thời,
tôi nghĩ: Nếu nói đại lược, tối thiểu
có sáu h́nh thức khác nhau mà chúng ta phải biết. Loại
thứ nhất là giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật,
lăo nhân gia suốt đời làm thầy; nói theo cách bây giờ,
Ngài là một nhà giáo dục văn hóa xă hội đa nguyên,
Ngài mang thân phận là một người có nghĩa vụ
làm công tác giáo dục văn hóa xă hội đa nguyên, không nhận
học phí. Cuộc sống rất đơn giản, ăn
một bữa Ngọ, ngủ dưới gốc cây, suốt
đời không xây trường học. Giảng dạy ở
chỗ nào? Rừng núi, dưới cội cây, số người
học chẳng ít! V́ thế, nay chúng ta nghĩ đến,
thấy chẳng đơn giản. Thường Tùy Chúng là
một ngàn hai trăm năm mươi lăm người,
những vị này chẳng rời khỏi Phật. Tôi
nghĩ những người tham dự khác, tối thiểu
cũng bằng số này. Nói cách khác, khi Phật dạy học,
thính chúng phải tới hai, ba ngàn người. Thuở ấy,
đâu có máy khuếch âm, ở trong đồng trống, nếu
người ta nghe không rơ ràng lắm, có c̣n hứng thú theo học
với Phật nữa hay chăng? Buổi tối nghỉ dưới
cội cây, gió thổi, nắng hun, mưa táp đều chẳng
ngại, thân kim cang bất hoại mà! Giữa trưa ăn
một bữa, người ta cho ǵ ăn nấy, chẳng
phân biệt tí nào. Đó là hạng người ǵ, thân thể
ǵ vậy? Chúng ta ngẫm lại, không có cách nào sánh bằng!
Chúng ta ra ngoài đồng ở một đêm, hôm sau về
nhà bèn ngă bệnh, làm sao có thể sánh bằng? Chẳng phải
là một hai ngày, mà là sống như vậy suốt bốn
mươi chín năm, chẳng thể khiến kẻ khác bội
phục ư? Thật sự có công phu, thân lẫn tâm đều
khỏe mạnh. Đây chính là Phật giáo nguyên gốc của
Thích Ca Mâu Ni Phật. Lăo nhân gia suốt đời chẳng
lập đạo tràng là có lư của Ngài; bởi lẽ, lập
đạo tràng sẽ có kẻ khởi ư niệm cong quẹo:
“Làm thế nào để có đạo tràng ấy?” Ngài không
có đạo tràng, v́ biết người đời sau [đối
với đạo tràng] sẽ có tác dụng phụ (kiến
giải chấp trước, tham cầu lệch lạc), thứ
ǵ cũng không có, chúng ta nên học theo điều này!
Phật
giáo truyền sang Trung Quốc, đạo tràng do quốc
gia, hoặc những vị trưởng giả đại
phú kiến tạo, đều gọi là “thập
phương đạo tràng”, đều chẳng thuộc tư
nhân. Đạo tràng tự quản lư là cách thức rất
hay, hết thảy những người điều hành đều
được bầu ra. Do vậy, Phật môn có chế
độ tuyển cử sớm nhất. Trụ Tŕ hay Đương
Gia đều do tuyển cử, nhiệm kỳ một
năm. V́ lẽ ǵ? Đây là phục vụ; phục vụ
th́ chẳng thể bắt người
ta phải phục vụ măi, mỗi cá nhân đều phải
có nghĩa vụ này, hoàn toàn là nghĩa vụ. V́ thế,
mỗi cá nhân tối thiểu phải phục vụ một
năm. Trong chùa chiền, ngày Ba Mươi tháng Chạp, các
vị [chấp sự] cùng từ chức, bầu cử lại.
Ngày hôm sau, những người mới được tuyển
cử sẽ nhậm chức vào ngày mùng Một tháng Giêng,
đến hôm Ba Mươi [tháng Chạp năm ấy] sẽ
cùng từ chức. V́ vậy, đây là một chế độ
tốt đẹp, chẳng có ai tranh chấp, thật sự
là tuyển lựa người tài năng và đức độ
làm Trụ Tŕ đạo tràng; bởi lẽ, đây là một
cơ cấu giáo học. Tại Trung Quốc đă có chế
độ này, chính thức đi vào khuôn khổ, chính thức
tiến hành công tác giáo học. Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo học
tư nhân, giống như Khổng lăo phu tử cũng là
giáo học tư nhân. Sau khi đạo Phật truyền
đến Trung Quốc bèn có chế độ, chế
độ này được gọi là “chế độ tùng lâm”. Trong quá khứ, Phương
tiên sinh đă nhiều lượt nói với tôi điều
này, tối thiểu cũng phải mười mấy lần,
tạo ấn tượng rất sâu đậm. Thầy
nói Phật giáo muốn hưng vượng, nhất định
phải khôi phục chế độ tùng lâm. Chế độ
tùng lâm là trường học, chính thức quản lư
trường học: Chủ tịch tùng lâm là hiệu
trưởng, Thủ Tọa là giáo vụ trưởng, Duy
Na là huấn đạo trưởng, Giám Viện là tổng
vụ trưởng, hoàn toàn giống với cách phân chia
trách nhiệm trong trường đại học. Tuy khác danh
xưng, nhưng chức trách như nhau, quả thật là một
trường học. Đấy là trong quá khứ. Hiện thời
chẳng c̣n nữa. Hiện nay, Phật giáo biến thành tôn
giáo. Chúng ta nên biết điều này xảy ra từ thời
vua Gia Khánh trở đi. Trong thời Càn Long - Gia Khánh, chùa
chiền, tùng lâm Trung Quốc vẫn c̣n là nơi dạy học,
đời nào cũng có bậc cao tăng, đại đức.
Hiện nay đă biến thành tôn giáo, chúng ta cũng chẳng
thể không thừa nhận nó. Do vậy, loại thứ
hai là tôn giáo Phật giáo. Quư vị thấy loại này lấy
kinh sám Phật sự, pháp hội làm chính yếu, chẳng giảng
kinh, dạy học, biến chất rồi! Loại thứ
ba là biến thành học thuật. Trong trường đại
học, ban Triết Học dùng kinh Phật để giảng
dạy, tôi cũng dạy mấy năm, Phật giáo biến
thành học thuật, biến chất rồi! Loại thứ
tư là du lịch văn cảnh trong nước, tức là loại
Phật giáo tham quan du lịch. C̣n có một loại rất
mới, rất “hợp thời trang” là xí nghiệp Phật
giáo, nghe nói c̣n có cạnh tranh trên thị trường, xí
nghiệp Phật giáo mà! Loại cuối cùng là tà giáo Phật
giáo, đeo chiêu bài Phật giáo, thật ra chẳng ăn nhập
ǵ với Phật giáo, giống như cái gọi là Pháp Luân Công,
hoàn toàn sai lầm. Như vậy là tối thiểu có sáu
h́nh thức khác nhau, chúng ta đang học loại nào, phải
hiểu rơ điều này!
Do Chương
Gia đại sư chỉ tôi đường lối này, dạy
tôi hăy học về Thích Ca Mâu Ni Phật, tôi cũng rất
vâng lời, hết sức tôn kính thầy, vâng lời thầy
chỉ dạy. Sau đấy, không những thầy dạy
tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật, mà c̣n mong tôi hăy xuất
gia, đi theo con đường của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tôi làm theo, chứng thực lời cụ Phương
đă nói: “Học Phật là hưởng
thụ tối cao trong đời người”, thật
là hạnh phúc sung sướng mỹ măn. Có thử thách hay
chăng? Thử thách hết sức nhiều, thử thách
đều là khảo thí. Chúng ta học Phật, đối
với người, đối với sự, đối với
vật, phải vĩnh viễn giữ tấm ḷng cảm
ơn. Quư vị sẽ luôn gặp phải hủy báng,
chướng ngại, thậm chí hăm hại, quư vị phải
cảm ơn những người ấy. V́ sao? Họ đến
khảo ta, ta đều có thể vượt qua, chẳng
oán hận, chỉ cảm ơn. V́ lẽ ǵ họ chướng
ngại ta như thế? Đại khái là do hai nguyên nhân: Một
là trong đời quá khứ, có lẽ ta đă chướng
ngại họ. Đấy là oan oan tương báo. Nay chúng
ta hiểu rơ, giác ngộ, tiếp nhận quả báo này, hóa
giải oan nghiệt ấy. Ta chẳng trả thù họ, mà
cũng đừng nên oán hận họ. Một nguyên nhân
khác là từ xưa đến nay, đây là điều chẳng
thể tránh khỏi. Bị đố kỵ, chướng
ngại là do bản thân chúng ta cư xử chẳng cẩn
thận, thái độ chẳng khiêm tốn, khiến kẻ
khác sanh ḷng ghen ghét. Đó là ta sai, chẳng phải kẻ ấy
sai, chúng ta cũng phải cảm ơn kẻ ấy. Trong
Phật pháp, nơi đâu hữu duyên bèn đến đó,
hữu duyên được gọi là “thời tiết nhân duyên”. Cổ nhân Trung Quốc
thường nói: “Nhân vô thiên nhật
hảo, hoa vô bách nhật hương” (người chẳng
tốt đẹp ngàn ngày, hoa chẳng thơm trăm bữa).
Người và người ở chung với nhau, có thể
ở chung ba năm, quư vị bèn chán ngán, nẩy sanh vấn
đề. Chúng ta phải biết dè dặt, cẩn thận
trong khởi tâm động niệm, lời lẽ, hành vi,
phải lấy những lời chỉ dạy của Phật,
Bồ Tát, thánh hiền làm tiêu chuẩn ứng xử cho
chúng ta, nghiêm ngặt tuân thủ, chắc chắn sẽ có
ích. Đối với những kẻ thương tổn
chúng ta, chúng ta dùng tâm t́nh báo ân để đối đăi, lâu
ngày họ sẽ biết, biết rồi cũng sẽ hối
cải, nhưng như thế nào? Nói xin lỗi là vấn
đề thể diện! Chúng ta biết điều ấy,
trong tâm kẻ ấy chẳng c̣n oán hận chúng ta, hóa giải
rồi. Quư vị nói xem chuyện này có vui sướng lắm
hay không, là chuyện tốt đẹp như thế đó!
Bởi lẽ,
trong thế gian hiện tại, oan oan tương báo quá nhiều,
v́ lẽ ǵ? Quư vị đối xử với người
khác, chẳng ban bố ân đức, khó tránh kết oán với
người khác. Nay v́ sao con hiếu cháu hiền ít ỏi, quư
vị ngẫm xem chính ḿnh có bố thí ân đức đối
với người ngoài hay chăng? Bố thí ân đức
mới có kẻ báo ân t́m đến. Bố thí tài vật mới
có người tới trả nợ. Luôn luôn toan chiếm phần
tiện nghi hơn người, đó là ǵ? Con cháu của quư
vị là kẻ đến đ̣i nợ. Đâu đâu
cũng ngạo nghễ, lấn áp người khác, như vậy
là sẽ có kẻ tới báo oán. Phiền phức ở chỗ
này. Chúng ta nhất định phải hiểu điều
này, đều là “tự làm, tự chịu”. Mọi người
đều là người tốt, tổ tiên dạy chúng ta “nhân tánh bổn thiện” (tánh
con người vốn lành), Đại Thừa Phật pháp
dạy chúng ta “tất cả chúng
sanh vốn là Phật”, chúng ta thấy người khác
như thế nào? Chúng ta phải thấy người khác, hết
thảy chúng sanh đều là Bồ Tát, đều là Phật,
thật đấy, chẳng giả đâu! V́ sao Thiện Tài
chứng đắc Phật quả rốt ráo viên măn trong một
đời? Xưa kia, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm, giảng Tứ
Thập Hoa Nghiêm, cũng bỏ ra không ít thời gian;
đáng tiếc là khi ấy ngay cả máy thâu âm cũng
chưa có. Tôi giảng kinh được một nửa bèn
hiểu rơ, biết bí quyết thành tựu của Ngài chính
là: Trong ḷng Ngài, chúng sanh toàn là thiện tri thức, toàn là Phật,
Bồ Tát, cho nên Ngài thành tựu. Tôi quan sát cẩn thận,
t́m ra thông tin này từ kinh điển: Thầy của Ngài là
Văn Thù Bồ Tát. Ngài đắc Căn Bản Trí nơi Văn
Thù Bồ Tát, mà cũng là đắc thanh tịnh tâm, đại
triệt đại ngộ. Ngộ rồi khởi tu, khởi
tu là ǵ? Khởi tu là sống. Văn Thù Bồ Tát bảo Ngài
đi tham học, năm mươi ba lần tham học, tham
học là ǵ? Tiếp xúc các tầng lớp trong xă hội, hết
thảy mọi người mà quư vị tiếp xúc từ
sáng đến tối toàn là Phật, toàn là Bồ Tát, chỉ
có một ḿnh ta là phàm phu. Ngài mang tâm thái như vậy, áp dụng
toàn bộ những điều đă học từ chỗ
thầy vào cuộc sống, áp dụng trong công việc, áp dụng
trong xử sự, đăi người, tiếp vật.
Khi thầy
Phương giới thiệu kinh Hoa Nghiêm, đă bảo tôi:
Kinh Hoa Nghiêm có lư luận viên măn, có phương pháp thiện
xảo, cuối kinh lại c̣n có biểu diễn. Năm
mươi ba lần tham học là biểu diễn, quư vị
thấy: Đem đạo lư và phương pháp áp dụng vào
cuộc sống, công tác, vào xử sự, đối nhân xử
thế cho quư vị thấy. Cụ nói bộ sách giáo khoa này,
cụ quan niệm kinh Hoa Nghiêm là Phật học khái luận
bậc nhất trên thế giới, t́m chẳng ra loại
tài liệu giảng dạy thứ hai nào tốt đẹp
như thế. V́ thế, vào tuổi xế chiều, lăo nhân
gia dạy Triết Học Hoa Nghiêm cho chương tŕnh tiến
sĩ ở đại học Phụ Nhân (đại học
của giáo hội Công Giáo) đúng là thỏa thích. Chúng tôi được
thầy chỉ dạy, mới biết Phật pháp thù thắng
khôn sánh. Phật pháp quả thật có thể giải quyết
vấn đề của chính ḿnh. Bản thân tôi có rất
nhiều vấn đề, trong đời quá khứ chẳng
tu phước báo. Số mạng có thật! Quư vị đọc
Liễu Phàm Tứ Huấn, thấy tiên sinh Liễu Phàm được
Khổng tiên sinh đoán mạng, suốt hai mươi năm
chẳng sai mảy may: Thu nhập hàng năm, thứ tự
đỗ đạt, địa vị đẳng cấp
mỗi năm đă định trước trong số mạng.
Trong cuộc sống hằng ngày, tiên sinh Viên Liễu Phàm chuyện
ǵ cũng chẳng nghĩ tới, cùng thiền sư Vân Cốc
ngồi trong Thiền Đường suốt ba ngày ba
đêm, chẳng khởi một niệm. Loại người
này rất ít, thiền sư Vân Cốc rất kinh ngạc,
ba ngày ba đêm chẳng khởi một niệm, công phu này
khá lắm! Liền hỏi ông ta: “Ông tu như thế nào?”
Ông ta liền đáp lời, cũng rất thật thà: “Con
chẳng có công phu ǵ! Số mạng đă được
người khác đoán sẵn, khởi niệm vô ích, chẳng
thà coi như xong, chẳng khởi niệm nữa!” Thiền
sư Vân Cốc cười, bảo: “Ta ngỡ ông là thánh
nhân, hóa ra ông vẫn là phàm phu”. Ông ta hỏi: “Sao thầy nói
vậy?” Sư bèn giải thích. Đây là một người
thật sự hiểu mạng vận, chẳng khởi vọng
tưởng. Quư vị tin vào số mạng, hăy xem thiền
sư Vân Cốc dạy ông Viên phương pháp sửa đổi
số mạng. Số mạng của quư vị do đâu mà
có? Do [các nghiệp nhân] trong đời quá khứ tạo
thành.
Lúc tôi mới
học Phật, Chương Gia đại sư dạy tôi;
Ngài đă già, lớn hơn tôi ba mươi chín tuổi, khi
ấy, tôi hai mươi sáu tuổi, lăo nhân gia đă sáu
mươi lăm tuổi. Sư đă gặp nhiều
người. [Theo Sư nhận định], con người
tôi ngoại trừ có chút thông minh nhỏ nhặt, trong số
mạng chẳng có của cải, chẳng có địa vị,
là kẻ bần tiện, có số ăn mày! C̣n có một tí
thiện căn, đây là điểm khó có: Biết tôn
sư trọng đạo, hiếu thuận cha mẹ, thọ
mạng chỉ được bốn mươi lăm tuổi,
tôi tin tưởng [lời Sư]. V́ thế, Ngài giúp tôi, dạy
tôi tu ba điều: Tài bố thí, pháp bố thí, vô úy bố
thí, dạy tôi những điều này để sửa
đổi số mạng. Tài bố thí th́ tôi không có tiền,
mỗi tháng bản thân chỉ có chút tiền lương,
đời sống khá chật vật, tiền đâu để
bố thí? Ngài hỏi tôi: Có cắc nào hay không? Một cắc
cũng được! Một đồng có được
hay không? Một đồng vẫn được! Anh hăy bố
thí từ một cắc, một đồng, trước hết,
phải có ư nguyện bố thí, có ư niệm ấy. Về sau,
tôi thường đến chùa miếu mượn kinh xem, chẳng
có chi khác, chùa miếu có kinh sách, mua bên ngoài chẳng
được. Thấy nhà chùa in kinh sách, bèn quyên góp một
ít tiền, chúng ta bỏ ra năm mươi xu, hay một
đồng đều được, làm từ chỗ
này. Phóng sanh th́ lúc tôi mới học Phật bèn phóng sanh, in
kinh, đúng là càng thí càng nhiều, chẳng giả tí nào! Sau
này, theo thầy Lư học kinh giáo, rồi đi giảng kinh.
Giảng kinh là pháp bố thí. Đại khái, tôi giảng
kinh mười một, mười hai năm, có lần gặp
Cam Châu Hoạt Phật (Kanjurwa Khutughtu), vị này đă khuất,
cũng là học tṛ của Chương Gia đại
sư, cũng có địa vị rất cao trong Phật
giáo theo truyền thống Tây Tạng. Có một lần,
Sư cho tôi biết: “Pháp sư Tịnh Không, thầy đến
đây, tôi có lời muốn nói với thầy”. Tôi nói: “Thưa
Phật gia, chuyện ǵ thế?” Tôi và Sư rất thân thuộc.
Sư nói: “Chúng tôi phê b́nh sau lưng thầy”. Tôi hỏi: “Phê
b́nh tôi điều ǵ?” Sư nói: “Thầy là người rất
thông minh, cũng là một người tốt, rất
đáng tiếc mạng thầy rất khổ, đoản
mạng”. Tôi đáp: “Chuyện này có thể nói trước
mặt mà! Tôi biết rất rơ, tôi đâu bận tâm chuyện
này”. Sư nói: “Mấy năm nay, thầy giảng kinh công
đức rất lớn, số mạng của thầy
đă chuyển biến”. Tôi hỏi: “Thật sao?” “Thật
đó! Thầy thọ mạng rất dài, phước báo rất
lớn”. Tôi cũng chẳng cầu phước báo, cũng
chẳng cầu tuổi thọ, thật đấy! Sư
nói với tôi chuyện này xong, năm sau bèn văng sanh, tôi không ngờ
Sư văng sanh nhanh như vậy!
V́ thế,
gặp được Phật pháp, vận mạng mới
chuyển biến rất lớn, mỗi một lần bị
vùi dập là một lần được tiến triển
với mức độ lớn, đồng học ở
cạnh tôi đều đích thân thấy điều này.
Chúng ta học Phật chỉ có một sứ mạng: Mong
cho chánh pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật tồn tại lâu dài,
học đ̣i Thích Ca Mâu Ni Phật giúp hết thảy chúng
sanh phá mê khai ngộ. Phá mê khai ngộ bằng giáo học. Con
người khổ nạn, xă hội gặp tai nạn là
v́ đâu? Đều do chúng sanh mê hoặc, điên đảo,
tạo tác nghiệp bất thiện mà cảm vời. Làm thế
nào để giúp chúng sanh, giúp xă hội hóa giải tai nạn?
Dùng ngay biện pháp quen thuộc của Thích Ca Mâu Ni Phật,
giảng kinh, dạy học. Bởi lẽ, người giảng
kinh dạy học càng đông, kẻ được giáo hóa
càng nhiều, người giác ngộ càng lắm, nhiều vấn
đề trong xă hội sẽ được giải quyết,
cái gọi là “thiên tai” cũng dần dần bị hóa giải,
chuyện này là thật, chẳng giả! Tiến sĩ Giang
Bổn Thắng làm thí nghiệm trên nước, mới đây
đă triệu tập một hội nghị tại
Đông Kinh, có mời tôi. Tôi viết một bài diễn giảng,
giao cho cư sĩ Chung Mậu Sâm thay tôi tham dự, báo cáo
trong đại hội. Khoa học chứng minh ư niệm của
chúng ta chẳng thể nghĩ bàn. Bởi lẽ, theo giáo
pháp Đại Thừa, vũ trụ do đâu mà có? Vạn
pháp do đâu mà có? Ta do đâu mà có? Đức Phật nói rất
rơ ràng: “Duy tâm sở hiện,
duy thức sở biến”. V́ thế, chúng ta giải quyết
vấn đề của chính ḿnh, sẽ giải quyết vấn
đề nơi hoàn cảnh. Đối với thiên tai
trong môi trường hiện thời, Phật pháp đă dạy
chúng ta một nguyên tắc chỉ đạo tối cao, tức
là quư vị phải thật sự hiểu: “Tướng do tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm”. Chỉ
cần chuyển biến cái tâm. Giáo học của Phật pháp
không có ǵ khác, dạy bảo chúng ta hăy chuyển ác thành thiện,
[thiện, ác] có tiêu chuẩn. Thập Thiện Nghiệp
Đạo là tiêu chuẩn trong nhà Phật. Quư vị đừng
coi thường mười điều này. Trong giáo pháp Tiểu
Thừa, mười điều ấy được triển
khai thành ba ngàn oai nghi; trong Đại Thừa Bồ Tát pháp,
triển khai thành tám vạn bốn ngàn oai nghi, tức là
mười điều này mở rộng thành tám vạn bốn
ngàn điều, chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, tu Thập
Thiện viên măn th́ tám vạn bốn ngàn điều quư vị
đều thực hiện, quư vị sẽ thành Phật!
Đừng
coi thường một trăm mười ba điều
trong cuốn Đệ Tử Quy của Nho gia! Nếu triển
khai th́ chúng cũng thành tám vạn bốn ngàn điều, toàn
bộ văn hóa truyền thống được thực
hiện ngay trong đó. Do vậy, Tứ Thư, Ngũ Kinh,
mười ba kinh, thậm chí Tứ Khố Toàn Thư đều
chẳng tách rời [những điều ấy]; mỗi một
điều đều chẳng tách rời, đều giống
với Thập Thiện Nghiệp Đạo. Mỗi một
bộ kinh, mỗi một câu, mỗi một chữ trong
Đại Tạng Kinh đều chẳng tách ĺa Thập
Thiện Nghiệp Đạo, một tức hết thảy,
hết thảy tức một. Cũng v́ hiện thời
đúng là lúc tai nạn rất nhiều, cho nên tôi phát tâm tạm
ngừng giảng kinh Hoa Nghiêm từ một năm tới
hai năm để lần này giảng bộ kinh này. Trong
quá khứ, tôi đă giảng kinh Vô Lượng Thọ mười
lần, nhưng lần này, tôi chẳng giảng kinh mà giảng
chú giải, giảng chú giải của ai? Giảng bản
chú giải của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Hoàng
lăo cư sĩ với tôi là bạn bè, mà cụ cũng là thầy
của tôi. Cụ có cùng vai vế với thầy tôi. Lăo
cư sĩ Lư Bỉnh Nam là học tṛ của đại
sĩ Mai Quang Hy. Mai đại sĩ và cụ Hạ Liên
Cư là sư huynh, sư đệ, bạn bè hết sức
thân thiết. Cụ Hoàng Niệm Tổ là cháu gọi cụ
Mai Quang Hy bằng cậu, là học tṛ cụ Hạ Liên Cư.
Do trước kia chưa từng gặp mặt, nhưng
tôi từng nghe cụ Lư nhắc đến tên cụ Hoàng,
có chút ấn tượng như thế đối với cụ
Hoàng Niệm Tổ. Thuở ấy, năm 1986, tôi là hội
trưởng của Hoa Phủ Phật Giáo Hội tại Washington,
Mỹ quốc. Các đồng tu tới bảo tôi: Họ
tính mời một vị thượng sư Mật Tông sang
Mỹ hoằng pháp. Khi đó, tôi nghe xong, không cho là đúng:
“Chúng ta là Tịnh Độ Tông, chớ nên dính dáng môn phái khác!”
Tôi nói: “Chúng ta thâm nhập một môn, trường thời
huân tu”. Tôi hỏi họ: “Vị đại đức Mật
Tông ấy là ai thế?” Họ thưa: “Hoàng Niệm Tổ”.
Trong đầu tôi có ấn tượng về Hoàng Niệm
Tổ, tôi nghĩ măi mới ra, tôi hỏi: “Có phải ông ta
là cháu cụ Mai Quang Hy hay chăng?” Họ đáp: “Đúng vậy”.
Tôi bảo: “Hăy thỉnh ông ta sang”. Thầy Lư đă nói đến
vị này mấy lần, tôi tưởng cụ là người
lớp trước, đă tịch rồi, [nào ngờ] cụ
vẫn c̣n trong nhân gian, rất khó có! Những điều cụ
giảng là chân truyền, không có vấn đề ǵ! Vị
này được đích thân cụ Mai và cụ Hạ uốn
nắn, dạy dỗ, tôi nói: “Vị đại đức
này khó có, quư vị hăy thỉnh cụ đến đây”. Thỉnh
cụ đến như thế đó.
Thỉnh
đến rồi mới biết, cụ hoằng
dương bản hội tập này trong nước, tôi hoằng
dương tại hải ngoại. Cụ nghe nói xong, hai
người chúng tôi hết sức cao hứng. Điều
hết sức khó có là khi ấy, cụ vừa viết xong bản chú giải, in bằng ronéo, chữ
in lờ mờ, chẳng rơ ràng. Chúng ta biết: In thứ ǵ
bằng ronéo, nhiều nhất là
không hơn một trăm bản. In hơn một trăm bản,
giấy sáp (stencil) sẽ chẳng thể dùng được
nữa. Cho nên cụ mới phải dùng bản in như vậy.
Đương nhiên, bộ sách cụ mang sang Mỹ, nhất
định là chọn bản in tương đối
rơ ràng một chút để tặng cho tôi; tôi đọc xong,
hết sức hoan hỷ. Cụ mong tôi viết lời tựa,
do vậy, lời tựa [bộ chú giải ấy] là do tôi
viết. Trước kia, tôi sang Bắc Kinh, sang vài lần, toàn
là đến gặp cụ, v́ gặp cụ mà sang đó. Mỗi
một lần sang đó, chúng tôi đều có một khoảng
thời gian rất dài để thảo luận các vấn
đề Phật pháp. Cụ dạy tôi rất nhiều; do
vậy, chúng tôi là bạn bè thân thiết, mà cụ cũng là
thầy tôi, tôi cũng cảm kích ân đức của cụ.
Bản hội tập này của cụ Hạ đâu phải
là dễ có, phàm phu làm sao có thể làm được! Các lần
hội tập trong quá khứ, [các bản hội tập của]
Vương Long Thư, Ngụy Mặc Thâm, hay tiết bản
(bản trích lục, phân chia thành chương đoạn) của
Bành Tế Thanh đều có vấn đề, vẫn
chưa thể coi là bản tận thiện tận mỹ.
Đọc bản này, nếu quư vị xem lời tựa rất
dài của cư sĩ Mai Quang Hy, [sẽ thấy cụ Mai]
viết hết sức rơ ràng. Do vậy, ở Đài Trung,
sau khi bản này truyền đến Đài Trung, thầy Lư
đă giảng kinh này một lượt. Khi ấy, kinh
chưa có chú giải, chính cụ Lư dùng bút lông viết lời
mi chú[3] kỹ
càng, đầy đủ. Khi cụ giảng bộ kinh này,
tôi c̣n chưa đến Đài Trung, chưa được
nghe, nhưng cụ đem bản mi chú này trao cho tôi, tôi có thể
đọc hiểu; dùng bản này, tôi cũng có thể giảng,
có năng lực này. Do vậy, khi đó, chúng tôi đă tính
giảng bộ kinh này, tŕnh lên thầy. Thầy bảo
chưa được, chưa đến lúc, chưa đến
thời tiết nhân duyên. V́ thế, các đồng tu ở Đài
Bắc đă in kinh xong, nhưng rốt cuộc đổi sang
giảng kinh Lăng Nghiêm; tôi ở Đài Bắc, trước
sau đă đem kinh Lăng Nghiêm học được từ
lăo nhân gia giảng bảy lần.
Do nguyên
nhân ǵ? Đố kỵ, chướng ngại. Tại Đài
Loan, mọi người có thành kiến đối với cụ
Hạ, đối với thầy Lư cũng có thành kiến,
nên thầy bảo tôi hăy tránh né. Đến khi lăo nhân gia văng
sanh, tôi ở Mỹ, nghĩ thầy đă cho tôi bản này,
rất nhiều người chưa thấy bản này, tôi
liền phát tâm in một vạn cuốn. Năm sau, tức
năm 1987, in xong xuôi, bèn cho lưu thông, tại ngoại quốc,
các đồng học ở Mỹ thấy bản này hết
sức thích thú, liền thỉnh tôi giảng giải. V́ thế,
tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ lần đầu
tiên tại Vancouver, Gia Nă Đại. Lần thứ hai, tại
thành phố San Francisco. Trước sau, giảng tất cả
mười lần, kinh mới được giảng giải,
lưu thông như vậy. Lần này tôi mang theo nguyên bản
kinh này, tặng cho ông Hồ Tiểu Lâm làm kỷ niệm. Ông
ta cũng thọ tŕ kinh Vô Lượng Thọ, số lần
đọc tụng rất nhiều. Từ nay về sau, chúng
ta phải vĩnh viễn lưu truyền kinh Vô Lượng
Thọ. Chúng ta cảm tạ ân đức hội tập của
cụ Hạ, cảm tạ cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
nhọc ḷng chú giải bộ kinh này. V́ thế, lần này,
tôi phát tâm giảng bản chú giải của cụ, gọi
là Diễn Nghĩa. Quư vị thấy kinh Hoa Nghiêm có Diễn
Nghĩa, đối với kinh Di Đà, Liên Tŕ đại
sư có tác phẩm Sớ Sao. Học tṛ của Liên Tŕ đại
sư lại chú giải Sớ Sao gọi là Diễn Nghĩa.
Đại khái, đối với diễn nghĩa, các vị
có khái niệm sâu nhất, như là tiểu thuyết Tam Quốc
Diễn Nghĩa. Chúng ta dùng phương pháp này để cùng
nhau học tập, học tập nhằm thâm nhập, thấu
triệt, theo phương pháp giống như ông Hồ Tiểu
Lâm học tập tác phẩm [Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ] Vọng Tận
Hoàn Nguyên Quán, từng câu, từng chữ chúng tôi đều
giảng rơ ràng.
Trong những
năm qua, chúng tôi gặp nhiều người thuộc giới
học thuật, tôi tiếp xúc rất nhiều, đặc
biệt là đối với sinh viên đại học hiện
thời, cảm thấy họ không giống thuở trước.
Xưa kia, khi tôi dạy tại đại học, sinh viên kể
ra cũng khá lắm. Khi lên lớp, chúng tôi đă không theo
cách dạy thời cổ, mà là giảng giải, giảng
hai tiếng đồng hồ, sinh viên thường rất
yên lặng lắng nghe. Trong nhà trường hiện thời,
không thể làm như vậy được! Sức chú ư của
học sinh trong nhà trường hiện thời đại
khái chỉ có mười lăm phút. Sau mười lăm
phút, họ sẽ không để tâm nữa. Do vậy, tôi
thường đem chuyện này hỏi các giáo sư: “Quư vị
dạy trong trường, dạy như thế nào?” Họ
nói: “Giảng bài mười lăm phút”. Sau đó th́ sao? Sau
đó là nói chuyện phiếm, dùng phương pháp này cho qua
thời gian. Chúng tôi thấy điều này hết sức
khó chịu, cũng là do học sinh tánh khí hời hợt.
Nói cách khác, đời chúng nó thiếu mục tiêu, thiếu
phương hướng, mù quáng, hiện tượng này rất
đau xót. Bởi vậy, tôi nghĩ tới hai câu nói của Khổng phu tử, hôm nay tôi đặc
biệt nêu ra hai câu này: “Thuật
nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ”. Dùng hai câu nói này làm thái
độ học vấn, rất hay! “Thuật nhi bất tác” là ǵ? Không sáng tạo, không
phát minh. Phu tử tự nói sở học, sở tu, sở
giáo, sở truyền cả đời Ngài toàn là những thứ
do cổ thánh tiên hiền đă nói, không có ǵ là của chính
ḿnh! Chúng ta có tin được hay chăng? Tôi học Phật
nhiều năm như thế mới tin tưởng,
đặc biệt là đối với những điều
được nói trong kinh Hoa Nghiêm và bộ Hoàn Nguyên Quán, v́
sao? Cổ thánh tiên hiền đều kiến tánh, thật
sự minh tâm kiến tánh. Tôi từng hỏi thầy Lư, tôi
nói: “Thưa thầy! Khổng Tử, Mạnh Tử, Lăo Trang
có phải là Phật, Bồ Tát tái lai hay chăng?” Thầy mỉm
cười, bảo tôi: “Nói theo
Lư th́ được, nhưng trên mặt Sự thiếu chứng
cứ”. Phẩm Phổ Môn nói “nên
dùng thân ǵ để đắc độ bèn hiện thân ấy”,
nhưng họ chẳng bộc lộ thân phận. V́ thế,
chúng ta có thể nói theo Lư th́ thông suốt, họ đều
là bậc đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh.
Kiến tánh
sẽ viên măn, quư vị chẳng thể thêm hay bớt chút
nào, luôn là viên măn. Người ấy chứng viên măn, mà quư vị
minh tâm kiến tánh cũng chứng viên măn. Do vậy, hai chữ
Như Lai có một cách giải thích: “Như Lai giả, kim Phật như cổ Phật
chi tái lai” (Như Lai là Phật hiện tại giống
như cổ Phật trở lại), giống như nhau,
cho nên nói: “Những điều
ta nói đều giống như cổ nhân đă nói”.
Đúng vậy, chẳng sai tí nào! Tự - Tha bất nhị.
V́ vậy, đùn trách nhiệm cho lời cổ nhân nói, chính
ḿnh chẳng có sáng tạo, phát minh, đó là khiêm hư. Bất
luận là pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, khiêm
hư là bậc nhất. Quư vị thấy trong sáu
mươi bốn quẻ [của kinh Dịch] có câu: “Măn chiêu tổn, khiêm thọ ích”
(Tự măn sẽ chuốc lấy tổn hại, khiêm tốn
được lợi ích). Trong sáu mươi bốn quẻ,
chỉ có quẻ Khiêm là “lục
hào giai cát” (sáu hào[4] đều tốt lành). Tâm con người
hiện thời hời hợt, bộp chộp, chẳng
khiêm hư; do vậy, chẳng những không thể tiếp
nhận thánh giáo, mà học thuật thế gian cũng chẳng
thể thành tựu. Hiện tại, t́m chẳng ra những
nhà văn học giống như thời Đường, Tống,
Nguyên, Minh. V́ thế, “thuật nhi
bất tác” rất quan trọng! “Tín nhi hiếu cổ”: Đối với những
trước tác của cổ nhân, thành tâm tin tưởng, một
chút hoài nghi cũng chẳng có. Ưa chuộng cổ nhân,
vui thích những giáo huấn của cổ nhân, những thứ
ấy đă trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng
nổi khảo nghiệm, bị thời gian lẫn con
người khảo nghiệm mà vẫn có thể lưu
truyền tới nay, chứng tỏ chúng có giá trị, chúng
ta phải tôn trọng, nghiêm túc, nỗ lực học tập.
Quư vị thấy Phật pháp nói theo Lư rất đơn giản,
chúng sanh và Phật chẳng khác, khác nhau ở chỗ nào? Mê hay
ngộ. Phật, Bồ Tát đă giác ngộ, chúng sanh chưa
giác ngộ, mê rồi! Do vậy, Phật, Bồ Tát giúp
đỡ chúng sanh, giúp ǵ? Giúp họ phá mê khai ngộ, giúp họ
“vọng tận, hoàn nguyên”
(hết vọng, trở về nguồn), đấy là giáo
dục. Giúp họ hoàn nguyên, giúp họ chứng đắc Bồ
Tát, chứng đắc Phật, có công đức hay không? Chẳng
có công đức. V́ sao? Họ vốn là Phật, vốn là Bồ
Tát. Giác ấy là Bổn Giác, Bổn Giác vốn có.
Quư vị
mới biết những bậc đại thánh đại
hiền giúp người, tâm địa thanh tịnh lắm,
thật sự chẳng nhiễm mảy trần, chẳng
có vọng niệm nào. Nếu tôi giúp quư vị như thế
là có ân đối với quư vị. Đấy là vọng niệm,
không có [vọng niệm ấy]! Chẳng có mảy may nào!
Cho nên các Ngài thanh tịnh, tự tại, chúng ta nhất
định phải hiểu điều này! Hiện thời,
con người hiểu lầm Phật giáo rất sâu, khi chúng
ta giảng giải, phải đặc biệt giảng rơ
ràng. Người Ấn Độ nói Phật, người
Hán nói “thánh nhân”. Phật nghĩa là ǵ? Nghĩa là giác ngộ.
Thánh (聖) là ǵ? Thánh có nghĩa là hiểu rơ! Hiểu
rơ chẳng phải là giác ngộ ư? Giác ngộ chẳng
phải là hiểu rơ ư? Bởi lẽ, Tự - Tha là một,
chẳng hai. Chúng ta xưng tụng Khổng Tử là Chí Thánh
Tiên Sư, chúng ta cũng có thể xưng tụng Phật
giống như vậy: “Chí Thánh
Bổn Sư”. Dùng cách xưng hô như vậy, mọi
người sẽ chẳng cảm thấy mê hoặc, sẽ
không nói Phật giáo là tôn giáo. Chí Thánh Bổn Sư, về căn
bản là một bậc thầy. Các Ngài đều dạy chúng
ta “thuật nhi bất tác, tín
nhi hiếu cổ”. Hai câu nói này của Khổng Tử được
chép trong sách Luận Ngữ, c̣n hai câu này của Phật được
ghi ở nơi đâu? Trong kinh Hoa Nghiêm, [tức là trong lời
giảng về] tựa đề của bộ Tứ Thập
Hoa Nghiêm, Thanh Lương đại sư bảo đức
Phật c̣n nói viên măn hơn Khổng Tử. Ngài nói đức
Thế Tôn từng bảo hết thảy các kinh do lăo nhân
gia đă nói trong bốn mươi chín năm đều do
cổ Phật đă nói; đối với các kinh do cổ
Phật đă nói, đức Phật chẳng nói thêm một
chữ nào, “thuật nhi bất
tác”, Ngài nói đến mức độ ấy, đúng
hay không? Đúng! V́ sao? Phật hiện tại và cổ Phật
chẳng khác, sở chứng của Phật hiện tại
là sở chứng của cổ Phật, sở thuật của
Phật hiện tại là sở thuật của cổ Phật,
chẳng khác nhau!
Như vậy
th́ chúng ta thực hiện hai câu này ra sao? Thực hiện
trong lần này. Đây là lần thứ mười một
tôi giảng bộ kinh này, dùng Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa, hoàn toàn dựa theo bản chú giải của thầy
Hoàng Niệm Tổ. Chúng ta báo ân, báo ân cụ Hạ đă v́
chúng ta hội tập một bộ sách viên măn như vậy,
hy hữu khó gặp gỡ! Tôi tin cụ Hạ chẳng phải
là người thường, mà là bậc tái lai. Tôi từng hỏi
cụ Hoàng. Cụ Hoàng khẽ gật đầu, bảo: “Chớ
nên nói điều này với người ngoài”. Chúng tôi biết,
trong tâm hiểu rơ: Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
cũng không phải là người tầm thường, trong
hoàn cảnh khó khăn như thế mà viết ra một bộ
chú giải như vậy, quá khó có! Sưu tập lắm tài
liệu như thế. Tôi đă đến nhà cụ vài lần,
thấy các tài liệu chất đống trong thư pḥng.
Quả thật là Tam Bảo gia tŕ, gần như cụ
nghĩ đến thứ ǵ, đều có người tặng
cho. Người tầm thường có thể được
như vậy hay chăng? Bộ kinh hay như thế, bản
chú giải tuyệt như thế, nếu chúng ta chẳng sốt
sắng học tập, sao chẳng phụ ḷng cụ Hạ?
Sao chẳng khiến cụ Hoàng thất vọng? Sao khỏi
phụ ḷng Thích Ca Mâu Ni Phật đă nhiều lần tuyên
giảng bộ kinh này? Báo ân Phật, báo ân thầy, báo ân quốc
gia, báo ân chúng sanh, chúng ta dùng phương pháp diễn
nghĩa này cũng là nghiêm túc, cẩn thận học tập.
Đó là nhân duyên giảng kinh lần này. Trong thời đại
này, phương thức báo ân cụ thể là phải dùng
phương pháp này, chúng tôi làm trước tiên. Hôm nay đă
hết thời gian, chúng ta học tập tới đây.
Ngày mai, chúng ta sẽ bắt đầu học từ phần
Tiền Ngôn (lời mở đầu). À! Cám ơn mọi người.
Tập 02
Thưa
chư vị pháp sư, chư vị đồng học,
xin ngồi xuống. Xin hăy xem Phật Thuyết Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh
Đẳng Giác Kinh Giải.
Ba chữ
Hội Tập Bản chẳng cần đến, từ Thanh
Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh Giải bèn có thể hiểu
rơ. Chúng ta dùng bản này do lăo cư sĩ Hạ Liên Cư ở
huyện Vận Thành, tỉnh Sơn Đông hội tập,
người chú giải là lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ.
Cụ Hoàng cũng là một vị Kim Cang Thượng
Sư bên Mật Tông. Chú giải có tất cả bốn quyển,
nay chúng ta in thành một tập. Bản quư vị vừa
xem, tức là bản tôi đang cầm đây được
chỉnh lư vào năm ngoái. Bản này được lưu
thông rất nhiều, trong ngoài nước, hồi mười
năm trước, chúng tôi in lần đầu một vạn
bản. Sau này, gần như hàng năm đều có số
lượng bản in tương đương được
lưu thông. Xin xem quyển thứ nhất. Chúng ta học tập
lần này, hoàn toàn học tập bản chú giải của
cụ Hoàng. Chúng ta báo đáp vị lăo nhân này lúc tuổi già
đă một phen khổ tâm, kế thừa hoằng nguyện
của thầy, mong muốn Tịnh Tông được
vĩnh viễn truyền thừa. Trong ngày hôm qua, chúng tôi
đă báo cáo nhân duyên này với quư vị.
Hôm nay
chúng ta xem quyển thứ nhất. “Tùng tiền ngôn, khái yếu, chí chánh thích kinh văn
đệ nhất phẩm chí đệ tam phẩm” (Từ
lời nói đầu, phần khái yếu cho tới phần
giải thích chánh kinh từ phẩm thứ nhất tới
phẩm thứ ba), cho biết nội dung quyển thứ nhất
là giảng đến phẩm thứ ba [của chánh kinh]. Cả
bộ kinh có bốn mươi tám phẩm. Trước hết,
chúng ta xem phần thứ nhất là Tiền Ngôn (lời nói
đầu). “Phù Tịnh Độ
pháp môn giả, năi Nhất Thừa liễu nghĩa, vạn
thiện đồng quy, tam căn phổ bị, phàm thánh tề
thâu, hoành siêu tam giới, kính đăng tứ độ, cực
viên cực đốn, bất khả tư nghị chi vi diệu
pháp môn dă” (Pháp môn Tịnh Độ là Nhất Thừa liễu
nghĩa, muôn điều thiện cùng quy vào, độ khắp
ba căn, phàm lẫn thánh đều được tiếp
độ, vượt khỏi tam giới theo chiều
ngang, mau chóng vượt lên bốn cơi, cực viên, cực
đốn, là pháp môn vi diệu chẳng thể nghĩ bàn).
Đoạn mở đầu này là một tiểu đoạn
nhằm tán thán Tịnh Độ, tán thán Tịnh Độ
đến tột bậc. Có đúng là như vậy hay
chăng? Phật Thích Ca giảng kinh thuyết pháp bốn
mươi chín năm, trong bốn mươi chín năm nói
rất nhiều kinh, bộ kinh nào trọng yếu nhất,
kinh nào là kinh bậc nhất? Chúng ta nghĩ như vậy,
chẳng biết cổ nhân đă sớm có cách nói như vậy.
Trong thời đại Tùy - Đường, các vị
đại đức phương Đông lẫn
phương Tây, phương Đông là những cao tăng,
tổ sư đại đức Trung Quốc,
phương Tây là các vị đại sư từ Ấn
Độ sang phương Đông truyền đạo, dịch
kinh. Trong đó, c̣n bao gồm các đại đức Nhật
Bản hay Hàn Quốc tới học ở Trung Quốc. Sau đó,
họ trở về nước, đều thành bậc
tông sư trong nước ḿnh, như mười ba tông phái
của Nhật Bản[5] đều
từ Trung Quốc truyền sang. Đi về phương
Nam c̣n bao gồm Việt Nam; do vậy, Phật giáo Việt
Nam cũng từ Trung Quốc truyền sang. Thuở ấy,
có tổ sư đại đức nêu ra câu hỏi như
thế này: Trong các bộ kinh do đức Thế Tôn đă
nói trong bốn mươi chín năm, bộ kinh nào có thể
đại diện cho kinh giáo cả một đời
đức Thế Tôn? Các vị đại đức gần
như đều công nhận Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh, mọi người công nhận. Bất
luận tông, phái nào cũng đều thừa nhận. Do vậy,
kinh Hoa Nghiêm biến thành căn bản pháp luân trong Phật pháp,
giống như một cây to, đây là cội, đây là rễ,
tất cả các chi phái đều từ căn bản này
mà phát triển ra. Lại truy cứu đến chỗ cuối
cùng của kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm là căn bản, chỗ
quy túc cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm là mười đại
nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn
về Cực Lạc. Đây là khí tượng[6] như
thế nào?
Bổn Sư
của thế giới Hoa Tạng là Tỳ Lô Giá Na Như Lai.
Văn Thù, Phổ Hiền giúp Tỳ Lô Giá Na Phật giáo hóa chúng
sanh, họ là hai đại đệ tử thủ lănh
trong hàng đệ tử. Văn Thù chủ tŕ Giải Môn, tượng
trưng cho trí huệ; Phổ Hiền chủ tŕ Hạnh Môn,
tượng trưng cho tu chứng. Một
đằng là Hạnh Môn, một đằng là Giải Môn.
Đến cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát, kinh Hoa
Nghiêm lấy Thiện Tài đồng tử làm đại biểu,
dùng mười đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc. Qua kinh điển, chúng ta thấy hai vị
Bồ Tát này: Văn Thù là thầy của bảy vị Phật,
học tṛ đều thành Phật, nhiều người
đă thành Phật, lăo nhân gia vẫn giữ thân phận Bồ
Tát, vẫn phù tá Tỳ Lô Giá Na Phật
dạy dỗ hàng Pháp Thân đại sĩ, từ bi đến
tột bậc! Đây gọi “đảo
giá Từ hàng” (thả chiếc bè Từ). Ngài đă thành Phật,
bèn lui xuống địa vị Bồ Tát, điều này
có ư nghĩa biểu thị pháp rất sâu.
Phật dạy chúng sanh chẳng dễ, v́ sao? Phật tượng
trưng cho bản thể, tượng trưng Pháp Tánh. Pháp
Tánh không có tướng, Pháp Tánh là ǵ? Pháp Tánh là Thường
Tịch Quang. Chúng ta gọi cơi cao nhất trong bốn cơi Tịnh
Độ là Thường Tịch Quang Tịnh Độ, “thường tịch” chỉ
Pháp Tánh. Thường Tịch Quang chẳng phải là vật
chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần; cả
hai phương diện này đều chẳng bàn luận
được, do không có cách nào, nên gọi nó là Thường
Tịch Quang. “Thường”
là vĩnh hằng bất biến, chữ Thường mang
ư nghĩa này! “Tịch” là
thanh tịnh tịch diệt. Quư vị thấy Lục Tổ
Huệ Năng đại sư đă kiến tánh, câu nói đầu
tiên là: “Nào ngờ tự tánh vốn
tự thanh tịnh”, Tịch mang ư nghĩa này. Diệt là
ǵ? Diệt là diệt hết thảy phiền năo. Kinh Hoa
Nghiêm gọi phiền năo là “vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước”. Trong giáo pháp Đại Thừa, vọng
tưởng được gọi là Vô Minh phiền năo, hoặc
gọi là Căn Bản Vô Minh, phân biệt được gọi
là Trần Sa phiền năo; kinh Đại Thừa gọi chấp
trước là Kiến Tư phiền năo. Danh xưng khác
nhau, ư nghĩa hoàn toàn tương đồng. Đối với
những điều kinh Hoa Nghiêm đă nói, chúng ta hiểu dễ
dàng, nhưng rất khó thể hiểu nổi ư nghĩa chân
thật, chúng ta hiểu theo kiểu nuốt trộng quả
táo. Do vậy, Căn Bản Vô Minh, Trần Sa, Kiến
Tư như kinh Đại Thừa đă nói chẳng dễ
hiểu cho lắm, nhưng giảng giải sẽ trở
nên dễ lư giải hơn. Do vậy, chúng ta biết: Những
danh từ thuật ngữ trong kinh giáo là bất định,
đức Phật chẳng có pháp nhất định để
nói. Do vậy, chúng ta “y nghĩa,
chẳng y ngữ”, quư vị phải hiểu ư nghĩa của
chúng, đừng chấp trước nơi ngôn ngữ,
văn tự, danh tướng, đều
chẳng cần chấp trước. Hiểu những ư
nghĩa được tượng trưng bởi chúng là
được rồi!
Do vậy,
chúng ta học Phật, phải biết tư tưởng
trung tâm trong giáo pháp suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật
là ǵ? Là Tịnh Độ. Trong hội Hoa Nghiêm, ta thấy Văn
Thù, Phổ Hiền suất lănh bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ của thế giới
Hoa Tạng, từ Sơ Trụ Bồ Tát đến Thập
Địa Bồ Tát, kể cả Đẳng Giác là bốn
mươi mốt địa vị; Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa bốn
mươi địa vị, thêm địa vị Đẳng
Giác, là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân
đại sĩ, đến nơi đâu? Đến thế
giới Cực Lạc, lễ bái A Di Đà Phật. Quư vị
hăy suy ngẫm cảnh giới này, sẽ thấy Tỳ Lô
Giá Na Phật có ḷng độ lượng rất lớn! Nếu
nói theo chúng ta hiện thời, chúng ta theo một vị thầy,
nghiễm nhiên phát hiện một vị thầy tốt
đẹp, bèn dẫn hết các đồng học sang chỗ
vị thầy kia, trong ḷng vị thầy này sẽ nghĩ
như thế nào? Chẳng phải là rất khó chịu
ư? Đó là phản thầy, nghịch đạo! Không những
Tỳ Lô Giá Na Phật chẳng phản đối, mà Tỳ
Lô Giá Na Phật c̣n vui vẻ: “Tốt! Các quư vị sang đó
hay lắm! Sang gặp A Di Đà Phật”. V́ sao? A Di Đà Phật
và Tỳ Lô Giá Na Phật bất nhị, là một, chẳng
hai. V́ sao sang thế giới Cực Lạc? Cực Lạc
thế giới A Di Đà Phật có phương tiện thiện
xảo, giúp quư vị tu hành chứng quả, rút ngắn thời
gian rất nhiều. Trong thế giới Hoa Tạng, chúng ta
nói về bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, chứng
đắc Phật quả rốt ráo viên măn phải mất
thời gian bao lâu? Ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Ba
đại A-tăng-kỳ kiếp là nói như thế này:
Chẳng phải là tính từ hiện tại, chẳng phải
vậy! Mà bắt đầu tính từ lúc quư vị minh tâm
kiến tánh, chưa minh tâm kiến tánh chẳng tính! Minh tâm kiến
tánh là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo hay Sơ Địa
Bồ Tát trong Biệt Giáo, bắt đầu tính từ ngày
đó, cần thời gian dài ngần ấy. Đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới th́ sao? Đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới trong một
ngày bèn viên măn, đó gọi là ǵ? Niệm và kiếp viên dung
chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, quư vị nói xem: Thế
giới Cực Lạc rất thù thắng! Cho nên, cổ
đại đức bảo: Khi truy cứu [đâu là] tột
đỉnh của Phật pháp, từ Hoa Nghiêm chúng ta truy tới
Vô Lượng Thọ, kinh Hoa Nghiêm tới cuối cùng trở
về kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ
chuyên giảng thế giới Cực Lạc.
Kinh Vô Lượng Thọ có chín bản,
có thể nói bản này của lăo cư sĩ Hạ Liên
Cư là bản hay nhất; trong năm bản dịch, bản
này được coi là bản hoàn chỉnh nhất, đây
là công tŕnh tổng hợp hoàn thiện năm bản dịch
gốc. Từ đời Tống trở đi, đă có người
muốn làm chuyện này, Vương Long Thư hoàn thành đầu
tiên. Trong phần sau, chúng tôi sẽ báo cáo tỉ mỉ. Ông
ta hội tập khá lắm, nhưng vẫn có tỳ vết,
chưa phải là tận thiện, tận mỹ. Về
sau, trong niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh, cư sĩ Ngụy Mặc
Thâm hội tập lần thứ hai, đương nhiên hay
hơn bản của Vương Long Thư.
Vương Long Thư chỉ đọc bốn bản
dịch gốc, c̣n Ngụy Mặc Thâm xem trọn năm bản
dịch gốc, hội tập cũng khá, nhưng vẫn
chưa tận thiện, tận mỹ, trong ấy có vấn
đề. Măi cho tới cuối cùng, đầu thời Dân
Quốc, lăo cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập lần
thứ ba. Rất lạ lùng, ba lần hội tập đều
là tại gia cư sĩ, tại gia Bồ Tát, cho thấy
pháp môn Tịnh Độ có duyên vô cùng thù thắng với kẻ
tại gia, cho nên ba lần hội tập đều do hàng
tại gia. Trong ấy, có nghĩa thú biểu thị pháp sâu
xa, thành tựu thù thắng khôn sánh, trong những phần sau
chúng ta sẽ thấy những điều này.
Mở
đầu, cụ Hoàng giới thiệu
với chúng ta, cụ bảo pháp môn này là Nhất Thừa Liễu
Nghĩa. Kinh Nhất Thừa là ǵ? Chúng ta thường thấy
Nhị Thừa, Nhị Thừa là Đại Thừa và Tiểu
Thừa, đó gọi là Nhị Thừa. Tam Thừa là Thanh
Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, và Bồ Tát Thừa, tức
là tách Tiểu Thừa thành Thanh Văn và Duyên Giác. Thanh
Văn là A La Hán, Duyên Giác là Bích Chi Phật. Tách [Tiểu Thừa]
thành hai, Bích Chi Phật cao hơn A La Hán một chút. Đó là
Tam Thừa. Trong kinh Pháp Hoa, đức Thế tôn đă nói
rơ chư Phật Như Lai ứng hóa trong thế gian này để
giáo hóa chúng sanh. Phẩm Phương Tiện của kinh Pháp
Hoa có nói: “Thập phương Phật
độ trung, duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị, diệc
vô tam, trừ Phật phương tiện thuyết”
(Trong mười phương cơi Phật, chỉ có pháp Nhất
Thừa, không hai, cũng không ba, trừ Phật nói
phương tiện). Bài kệ này hết sức trọng
yếu, nói cách khác, đức Phật giảng Tam Thừa
hay giảng Nhị Thừa là nói phương tiện; nói chân
thật th́ sao? Nói chân thật là pháp Nhất Thừa. Nhất
Thừa là Phật thừa, nói cách khác, pháp môn này nhằm dạy
người ta thành Phật, lại c̣n thành Phật ngay trong
một đời; đó là pháp Nhất Thừa. Đại
Thừa là thành Bồ Tát, trong một đời này, quư vị
tu đến quả vị tối cao là Bồ Tát; đó là Đại
Thừa. Nếu trong đời này, quư vị tu thành A La Hán
hay tu thành Bích Chi Phật th́ là Tiểu Thừa. Giống
như chúng ta đi học, Nhất Thừa là ǵ? Nhất Thừa
là lớp Tiến Sĩ nghiên cứu sinh. Trong đời này,
quư vị đạt được học vị (degree) tối
cao, Đại Thừa là lớp Thạc Sĩ (Cao Học,
Master), Tiểu Thừa là Học Sĩ (Cử Nhân, Bachelor).
Tốt nghiệp Đại Học là Học Sĩ. [Tam Thừa]
là danh xưng của ba loại học vị trong Phật
môn, cần phải biết điều này! Pháp môn nào có thể
chứng đắc Phật quả rốt ráo trong một
đời sẽ gọi là Nhất Thừa, pháp môn ấy
cũng là pháp môn Nhất Thừa, kinh ấy cũng là kinh Nhất
Thừa.
Trước
hết, chúng tôi giảng chữ Nhất Thừa theo cách giải
thích thông thường trong kinh Phật: Thừa (乘) là ví như cỗ xe, cổ nhân dùng xe
làm tỷ dụ. Đại Thừa là cỗ xe lớn. Thời
cổ, xe lớn là xe ngựa. Xe ngựa to, có thể ngồi
được nhiều người.
Tôi nhớ lúc nhỏ đi học tại Nam Kinh, đi học
bằng xe ngựa, một cỗ xe ngựa chở
được bao nhiêu học tṛ? Mười bốn đứa,
ngồi xe ngựa đi học. Sau khi Kháng Chiến thắng
lợi, xe ngựa vẫn c̣n. Sau khi Kháng Chiến thắng lợi,
nhằm năm Dân Quốc 34 hay năm Dân Quốc 35 (1946),
tôi học tại Nam Kinh, thuở ấy xe ngựa rất
nhiều, xe bus không nhiều lắm. Tiểu Thừa
là xe dê hay xe nai. Xe dê hay xe nai khá nhỏ, chỉ ngồi
được một, hai người. Trong kinh Pháp Hoa,
đức Phật dùng điều này làm tỷ dụ. “Thừa” có nghĩa là chuyên chở.
“Phật thuyết Nhất Thừa
chi pháp, vị linh chúng sanh, y thử tu hành, xuất ly sanh tử
khổ hải, vận chí Niết Bàn bỉ ngạn” (Phật
nói pháp Nhất Thừa để làm cho chúng sanh nương
theo pháp này tu hành, thoát khỏi biển sanh tử, chở
đến bờ Niết Bàn bên kia). Niết Bàn này là Niết
Bàn rốt ráo. Niết Bàn của Tiểu Thừa cũng gọi
là Niết Bàn, nhưng là Thiên Chân Niết Bàn. Tiểu Thừa
thoát sanh tử là thoát khỏi sự sanh tử trong lục
đạo luân hồi, cho nên họ chứng đắc Thiên
Chân Niết Bàn. Đại Thừa ĺa hai thứ sanh tử:
Loại thứ nhất là Phần Đoạn sanh tử, nay
[thọ mạng của] chúng ta là từng thời kỳ, từng
giai đoạn một. Loại thứ hai là Biến Dịch
sanh tử. Biến Dịch sanh tử chẳng dễ hiểu.
Ví như chúng ta đi học, chúng ta học lớp Một;
học lớp Một xong, năm sau lên lớp Hai, lớp Một
đă chết, lớp Hai bèn sanh, mang ư nghĩa này. Nói lên
điều ǵ? Chúng ta đang đi trên đường Bồ
Đề, bất luận là Đại Thừa hay Tiểu
Thừa, Tiểu Thừa có tám địa vị, theo kinh Hoa
Nghiêm, Đại Thừa có bốn mươi mốt địa
vị. Quư vị tiến lên từng bước một, vừa
rời khỏi địa vị dưới, lên địa
vị trên, bèn gọi là Biến Dịch. Biến Dịch chẳng
phải là sanh tử thật sự. V́ sao dùng [danh từ]
sanh tử? Sanh tử khổ lắm! Quư vị leo lên một
lớp cũng rất khổ cực, phải làm bài tập,
chẳng dễ ǵ lên lớp. Do vậy, quư cũng phải nếm
những nỗi khổ sở, mới có thể tiến cao
hơn. Quư vị thấy một người từ Tiểu
Học, Trung Học, Đại Học, học tới
nghiên cứu sinh, cũng phải học mất hai
mươi mấy năm. Quư vị phải hứng chịu
rất nhiều khổ sở mới có thể giành
được học vị; đó là Biến Dịch sanh
tử. Từ A La Hán trở lên, đă thoát khỏi lục
đạo.Trong lục đạo có cả hai loại [sanh
tử], Biến Dịch cũng có, mà Phần Đoạn
cũng có. Ngoài lục đạo là tứ thánh pháp giới.
Trong tứ thánh pháp giới có Biến Dịch, nhưng không
có Phần Đoạn sanh tử. Trong lục đạo có
nỗi khổ sanh tử, ngoài lục đạo chẳng
có, nhưng có Biến Dịch. Tu hành cũng chẳng phải
là chuyện rất dễ dàng, cũng phải nghiêm túc, nỗ
lực, tinh tấn, lại c̣n phải buông xuống phân biệt,
buông bỏ tập khí phân biệt, rồi buông vọng
tưởng xuống. Buông vọng tưởng xuống,
mười pháp giới chẳng c̣n, bèn đạt tới
Nhất Chân pháp giới, đạt đến cơi Thật
Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai.
Đức
Thế Tôn đă có mục tiêu thật sự là mong cho hết
thảy chúng sanh mau chóng thành Phật giống như Ngài; nhưng
căn tánh của chúng sanh không giống nhau, mê hoặc có sâu
hay cạn, tập khí khác nhau. Mê sâu, tập khí nặng, sẽ
chẳng thể tiếp nhận pháp Đại Thừa, nên
[đức Phật] bèn dùng pháp phương tiện. Ví
như thầy và cha mẹ chúng ta đều mong chúng ta đạt
được học vị Tiến Sĩ, nhưng học
vị Tiến Sĩ chẳng dễ ǵ đạt được,
làm cách nào đây? Mở trường học, lập ra Tiểu
Học, Trung Học, Đại Học, nâng [tŕnh độ
của] quư vị lên từ từ. Trung Học, Tiểu Học,
Đại Học đều là phương tiện quyền
xảo, chương tŕnh Tiến Sĩ mới là mục
tiêu thật sự, đức Phật dạy học cũng
giống như vậy. Quư vị thấy đức Thế
Tôn sau khi giác ngộ dưới cội Bồ Đề, đại
triệt, đại ngộ, thuật bày viên măn cảnh giới
Ngài đă ngộ nhập, nói suốt mười bốn ngày.
Mười bốn ngày ấy là nói trong Định, chúng ta
thấy Phật Thích Ca nhập Định dưới cội
Bồ Đề, đâu biết Ngài giảng kinh nơi đó,
giảng kinh ǵ? Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh, là cảnh giới do chính Ngài chứng đắc.
Chúng ta nh́n lại Trung Quốc, vào đời Đường,
Huệ Năng đại sư cũng đă minh tâm kiến
tánh. Trong phương trượng thất của ḥa
thượng Ngũ Tổ Nhẫn, Ngũ Tổ giảng kinh
Kim Cang cho Sư. Huệ Năng đại sư không biết
chữ, đương nhiên chẳng có quyển kinh, Tổ
giảng đại ư Kim Cang Kinh, giảng đến chỗ
“Ưng vô sở trụ, nhi sanh
kỳ tâm” (Đừng trụ vào đâu để sanh
tâm), Sư đại triệt đại ngộ. Sư
cũng nói ra cảnh giới của chính ḿnh, thốt ra
năm câu. Năm câu ấy chẳng khác ǵ kinh Hoa Nghiêm do Thích
Ca Mâu Ni Phật đă nói. Kinh Hoa Nghiêm rút gọn thành năm
câu ấy, mà năm câu ấy triển khai sẽ thành Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.
Huệ Năng
đại sư nói năm câu, câu đầu tiên là: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự
thanh tịnh”, không nghĩ đến, kiến tánh rồi,
nào ngờ tánh vốn sẵn thanh tịnh, chưa từng bị
ô nhiễm. Tự tánh của chúng ta có ô nhiễm hay không?
Không! Ô nhiễm sẽ chẳng thật, sẽ biến thành
đồ giả. Chúng ta nói ô nhiễm là thứ ǵ vậy? A
Lại Da ô nhiễm, A Lại Da là vọng tâm; tự tánh là chân
tâm, chân tâm chưa từng bị ô nhiễm. Do vậy, nhiễm
là vọng tâm. Nay chúng ta đang mê, nhưng thật sự chẳng
biết, ngỡ giả là thật, thiệt tḥi ở chỗ
này! Câu thứ hai là: “Nào ngờ
tự tánh, vốn chẳng sanh diệt”. Vốn chẳng
sanh diệt là Đại Bát Niết Bàn, đây là khát vọng
tha thiết bất sanh bất diệt của tất cả
các tôn giáo tại Ấn Độ thời cổ. Hiện tại,
mỗi tôn giáo đều nói “sống
đời đời” chính là ư nghĩa này. Có sống
đời đời hay không? Có! Cái Ngă thật sự sẽ
sống măi, Giả Ngă có sanh tử, cái Ngă ấy là giả,
chẳng thật! Quư vị hiểu rơ chuyện này sẽ rất
thoải mái, thảnh thơi, chẳng c̣n sợ hăi. Những
thứ ấy là giả, mặc cho nó sanh diệt như thế,
Chân Ngă vĩnh hằng bất diệt. Quư vị t́m lại
cái thật này, đức Phật dạy chúng ta t́m cái thật.
Đây là đại sự.
Ngài nói
câu thứ ba rất hay: “Nào ngờ
tự tánh vốn tự trọn đủ”, trọn
đủ ǵ vậy? Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế tôn
đă nói một câu nhằm căn dặn rơ ràng, Phật dạy:
“Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”.
Đây là “vốn tự trọn
đủ”. “Như Lai” là
nói về tự tánh. Trong giáo pháp Đại Thừa, quư vị
thấy nói Phật, nói Như Lai. Trong mười đại
nguyện vương: “Lễ
kính chư Phật, xưng tán Như Lai”. Nói Phật là nói
theo Tướng; nói Như Lai là nói theo Tánh, khác nhau ở chỗ
này! Tướng là giả, Tánh là thật. Đây là chỗ
khác nhau giữa hai danh từ này. Nói “hết thảy chúng sanh đều có trí huệ của
Như Lai” chính là nói đến tự tánh. Trong tự
tánh của quư vị có trí huệ, trí huệ viên măn. Đó là
ǵ? Sẵn có trong tự tánh, chẳng phải do học được.
Trí huệ viên măn, không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng
thể; đây là lời tán thán Thượng Đế của
các tôn giáo thông thường. Thượng Đế và thần
chưa chắc có [những đặc tánh này], nhưng tự
tánh thật sự có. V́ sao biết? Thượng Đế
và thần cũng là chúng sanh trong lục đạo, thuộc
thiên đạo. Họ vẫn chưa ra khỏi lục
đạo, vẫn chưa thoát tam giới, vẫn là mê chẳng
giác, phước báo lớn hơn chúng ta, trí huệ nhiều
hơn chúng ta một chút, nhưng vẫn chưa đạt
đến viên măn rốt ráo! Tự tánh sẵn có trí huệ
mới là viên măn. Đây là ǵ? Khi nó ẩn, nhà Phật gọi
là “ẩn hiện”, ẩn là
ǵ? Ví như cái màn huỳnh quang của chúng ta trong hiện
thời, nhấn nút tắt đi, h́nh ảnh ǵ cũng chẳng
có! Đó là “Nào ngờ tự
tánh, vốn tự sẵn đủ”. Quư vị chẳng
thể nói chúng không có. Vặn đúng băng tần, chúng
bèn hiện tiền. Vặn đúng băng tần th́ sao? “Có thể sanh vạn pháp”,
chúng bèn hiện tiền. Lúc chẳng hiện tiền, chẳng
thể bảo là không; khi hiện tiền, chẳng thể
nói là có. Điều này được sách Vọng Tận Hoàn
Nguyên Quán giảng rất rơ ràng, quư vị chẳng thể
nói nó là có. Đây là chân tướng sự thật, chúng ta nên
hiểu rơ.
Ngài nói
câu thứ tư: “Nào ngờ tự
tánh vốn chẳng lay động”, như như bất
động, đây là một mấu chốt quan trọng nhất
trong tu hành. Quư vị tu ǵ? Nhà Phật thường nói tám vạn
bốn ngàn pháp môn, tu ǵ? Thưa quư vị, đều là tu Thiền
Định, đều gọi là tam-muội. Tam-muội (Samādhi) là tiếng Phạn, Tam là Chánh, Muội
là Định, [tam-muội] là Chánh Định. Vốn là
Chánh Định, tâm quư vị vốn định, nay v́ sao
tâm loạn như thế? Loạn là vọng tâm, chẳng phải
là chân tâm. Chân tâm vốn định, chưa hề bị
dao động. Đó là năm câu nói của Huệ Năng
đại sư lúc khai ngộ. Sau khi nói ra năm câu này, Ngũ
Tổ bảo: “Được rồi”, truyền y bát cho
Ngài. Truyền cho Ngài rồi như thế nào? Bảo Ngài
hăy đi cho nhanh, t́m nơi lánh nạn. Lánh nạn ǵ? Phải
biết là xưa nay, trong ngoài, đố kỵ, chướng
ngại ở đâu cũng chẳng tránh khỏi. Quư vị
nói xem: Thần Tú đại sư ở đạo tràng của
Nhẫn ḥa thượng (tổ Hoằng Nhẫn) bao nhiêu
năm, là một đồ đệ được mọi
người kính ngưỡng nhất của Tổ; ai nấy
đều cho rằng Ngũ Tổ truyền pháp, chắc
chắn truyền cho Thần Tú, tại sao vô duyên vô cớ
truyền cho người khác? Gă ấy trọn chẳng có
ai biết đến, lại c̣n không biết chữ? Quư vị
thấy ngài Huệ Năng đến núi Hoàng Mai làm ǵ suốt
tám tháng? Giă gạo trong pḥng chứa củi. Sư ở Hoàng
Mai tám tháng, chưa từng vào Thiền đường, giảng
đường cũng chẳng ṃ đến, chưa từng
nghe kinh ngày nào, cớ sao Ngũ Tổ đem y bát truyền cho
Ngài, ai phục? Chẳng ai phục, chắc chắn sẽ
t́m Ngài gây sự, đoạt y bát về. Đấy là chuyện
nhỏ, chuyện lớn là có thể c̣n hại mạng Ngài
nữa kia! Do vậy, Tổ bảo Ngài đi cho nhanh, Ngài lập
tức cầm y bát đi ngay. Trốn trong phường thợ
săn mười lăm năm. Mười lăm năm ấy
khiến mọi người dần dần quên đi chuyện
này, Ngài mới ra mặt. Ra mặt, bèn gặp pháp sư Ấn
Tông, Ấn Tông tuyệt lắm! Ngài Ấn Tông ở Lănh Nam,
nay chúng ta gọi vùng ấy là Quảng Đông, khi ấy, gọi
là Lănh Nam, sư Ấn Tông là bậc cao tăng, giảng kinh,
thuyết pháp bậc nhất. Đạo tràng giảng kinh của
Ngài nay ở Quảng Châu, chùa nào ở Quảng Châu? Gió
động, hay phan động, lăo ḥa thượng Bổn
Hoán làm Trụ Tŕ [chùa ấy]. Tôi không nhớ nổi chùa nào ở
Quảng Đông. Quang Hiếu Tự[7], đúng rồi, chùa Quang Hiếu là
nơi Sư giảng kinh Niết Bàn.
Lục Tổ
rời khỏi phường thợ săn đến Quảng
Đông, gặp đạo tràng như vậy, ngồi ở
phía sau nghe kinh. Nghe hai vị xuất gia đang biện luận,
một người nói: “Lá phan treo bên ngoài động”. Quư vị
thấy lá phan đang lay động; người kia nói: “Chẳng
phải là phan động, mà là gió động”. Hai vị tranh
luận không ngớt, Ngài nói chen vào một câu, Ngài nói: “Thưa nhân giả”, hết sức
khiêm hư, vô cùng khách sáo, “nhân giả”
(仁者:
đấng nhân từ) là tiếng gọi
bậc Bồ Tát, là cách xưng hô tôn kính nhất, Ngài gọi
họ là “nhân giả”. “Chẳng phải là gió động,
cũng chẳng phải là phan động”, Ngài nói: “Mà là tâm của nhân giả động”.
Khi nghe vậy, hết thảy mọi người bội
phục năm vóc sát đất. Ấn Tông giảng xong,
bước xuống bục giảng, gặp mặt Tổ,
liền hỏi, ngày nay chúng ta thường gọi sự
đối đáp này là Thiền Cơ. Pháp sư Ấn Tông hỏi:
“Nghe nói ngài Hoàng Mai về sau truyền
pháp cho hành giả, có tên là Năng đại sư, chẳng
lẽ là Ngài?” Huệ Năng đại sư bèn thừa
nhận. Sư bèn thỉnh cầu: “Ngài hăy giở y bát ra cho
chúng tôi xem”. Y bát ấy là chứng minh, nhận đúng
người rồi. Đối với kinh giáo, pháp sư Ấn
Tông c̣n có chút vấn đề bèn thỉnh giáo đại
sư, Ngài đều giải thích cho pháp sư. Sau đấy,
Ấn Tông làm lễ xuống tóc xuất gia cho Tổ. V́ thế,
Ấn Tông là thầy thế độ của Lục Tổ
Huệ Năng đại sư. Nhưng sau khi xuống tóc,
pháp sư Ấn Tông bái Tổ làm thầy, chuyện này chẳng phải là người thường
[làm được]! Vị này là Phật hay Bồ Tát thị
hiện, [nếu không], đâu có ḷng độ lượng
lớn như thế? Một vị cao tăng khắp vùng Lănh
Nam ngay lập tức bái Tổ làm thầy, địa
vị của Huệ Năng đại sư liền cao trỗi.
Ngay lập tức nâng lên cao. Nếu không, Huệ Năng
đại sư muốn đạt tới địa vị
sâu xa như thế, tối thiểu phải mất mười
năm, hai mươi năm, c̣n nay là được đề
cao ngay. Do vậy, tôi nghĩ ngài Ấn Tông là Bồ Tát thị
hiện, hai vị này thổi kèn ḥa tấu cho chúng ta xem, đâu
phải là phàm nhân!
Năm câu nói ấy của
Ngài mở rộng ra sẽ là kinh Hoa Nghiêm, từng câu, từng
chữ trong kinh Hoa Nghiêm chẳng rời khỏi năm câu ấy!
Do vậy, Huệ Năng đại sư chứng đắc
cùng một cảnh giới với Thích Ca Mâu Ni Phật. Một
vị dùng thân Phật, dùng thân phận Phật xuất hiện,
phẩm Phổ Môn có nói: “Nên
dùng thân Phật để độ được, liền
hiện thân Phật để thuyết pháp”. Ngài Huệ
Năng ở Trung Quốc, nên dùng thân tỳ-kheo xuất hiện,
liền hiện thân tỳ-kheo để thuyết pháp, chẳng
khác ǵ nhau! Chúng ta phải biết điều này! Phật pháp
b́nh đẳng, đây là pháp Nhất Thừa. V́ thế, Thiền
Tông Trung Quốc là Nhất Thừa, nhưng Đại Thừa
không nhất định [là Nhất Thừa]. Cổ đại
đức bảo kinh Nhất Thừa chỉ có ba bộ là
Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và Phạm Vơng. Hết sức đáng tiếc
là kinh Phạm Vơng chẳng truyền sang Trung Quốc. Đó
là một bộ kinh lớn, phân lượng chẳng khác
kinh Hoa Nghiêm cho lắm. Chỉ có một phẩm được
truyền sang Trung Quốc là Bồ Tát Tâm Địa Giới
Phẩm, tức Bồ Tát Giới, truyền mỗi ḿnh phẩm
này, hai quyển, chẳng thấy những phẩm khác. Kinh
hoàn chỉnh là hai bộ Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Đối với
kinh Pháp Hoa, v́ sao có thể khẳng định là kinh Nhất
Thừa? Kinh Nhất Thừa là thành Phật trong một
đời. Trong phẩm Đề Bà của kinh Pháp Hoa có
nói long nữ tám tuổi thành Phật; rồng là súc sanh. Long
nữ tám tuổi, nghe Văn Thù Bồ Tát giảng kinh trong
cung rồng, cô ta nghe hiểu, giác ngộ, minh bạch.
Chư vị phải biết: Nghe pháp khai giải, đoạn
nghi sanh tín, lập tức thành tựu Hạnh môn. Hạnh môn
là ǵ? Buông xuống! Quư vị thấy trong kinh Đại Thừa,
đức Phật thường nói: Chỉ cần quư vị
có thể buông ba thứ phiền năo là vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước xuống, quư vị liền
thành Phật. Do vậy, chúng tôi tin rằng: Sau khi long nữ
nghe hiểu, bèn buông xuống. Sau khi buông xuống, đến
núi Linh Thứu gặp Thích Ca Mâu Ni Phật; sau khi lễ Phật
liền hiện thân Phật, thành Đẳng Chánh Giác trong
thế giới Vô Cấu ở phương Nam. Đấy
là kinh Pháp Hoa.
Chúng ta thấy
cuối kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài viên chứng vô thượng
Bồ Đề trong một đời, Ngài đắc
Căn Bản Trí trong hội Văn Thù. Căn Bản Trí là
ǵ? Nếu nói theo cách hiện thời cho dễ hiểu, sẽ
là tâm thanh tịnh. Tâm quư vị thanh tịnh sẽ ra sao? Chẳng
phải là giống như Huệ Năng đại sư sao?
“Nào ngờ tự tánh vốn tự
thanh tịnh”, đó là Căn Bản Trí. Ngài buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống,
đó gọi là ǵ? Đốn đoạn, tức là đoạn
ngay lập tức, Ngài bèn chứng đắc. Nay chúng ta hiểu
điều này, nhưng không bỏ xuống được,
vấn đề ở chỗ này. Người ta thật sự
buông xuống, không chỉ buông chấp trước xuống,
buông phân biệt xuống, mà ngay cả khởi tâm động
niệm cũng buông xuống. Buông xuống vọng tưởng
là chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đấy
là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh, kiến tánh thành Phật. Do vậy, bèn gọi là kinh Nhất
Thừa. Buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, mười pháp giới chẳng c̣n; bởi lẽ,
mười pháp giới là mộng cảnh, lục đạo
là “mộng trong mộng”. Chúng ta buông xuống hết thảy
chấp trước; nếu chẳng chấp trước
hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, quư vị bèn tỉnh thức, lục đạo
chẳng c̣n, giống như tỉnh mộng. Tỉnh mộng
rồi, sau khi tỉnh mộng, cảnh giới ấy sẽ
là tứ thánh pháp giới, vẫn là một giấc mộng,
nhưng trong giấc mộng ấy, phiền năo [của
tứ thánh pháp giới] nhẹ hơn chúng ta, chỉ là vọng
tưởng, phân biệt. Buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, mộng cảnh cũng chẳng c̣n, tứ
thánh pháp giới cũng chẳng có. V́ thế, nói: “Hễ có h́nh tướng, đều
là hư vọng”, chẳng giả tí nào! Mười pháp
giới không có, cảnh giới ǵ xuất hiện? Thế
giới Hoa Tạng xuất hiện, thế giới Cực
Lạc xuất hiện, đó là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của
chư Phật. Những cơi ấy có thật hay không? So với
chúng ta mà nói th́ là thật, thế giới này của chúng ta thiên
biến vạn hóa. V́ thế, lúc ấy, tôi nghĩ không ra vấn
đề này, biến như thế nào? Cớ sao biến
đến mức chẳng có cùng tận? Tôi nghĩ tới
lúc nhỏ chơi kính vạn hoa (kaleidoscope), bọn họ t́m
rất nhiều kính vạn hoa cho tôi, mấy tấm giấy
màu, đặt giữa ba miếng gương, quư vị xoay
ống kính, vừa xoay th́ các kết cấu h́nh thể (pattern)
trong ấy chưa bao giờ trùng lặp. Do vậy, chúng ta
học bộ Hoàn Nguyên Quán, thấy có câu: “Sanh ra vô tận”, dùng vật này (ống kính vạn
hoa) có thể tượng trưng [nguyên lư ấy], đúng
là sanh ra vô tận, chẳng giả! Điều ǵ thiên biến
vạn hóa trong vũ trụ? Niệm làm chủ tể, ư niệm
làm chủ tể, thuận theo ư niệm của quư vị mà
dấy lên biến hóa, chuyện là như vậy đó. Do vậy,
phải hiểu rơ chân tướng sự thật này!
Trong kinh này,
đức Phật dạy chúng ta điều ǵ? Dạy
chúng ta hiểu rơ chân tướng của vũ trụ và
nhân sinh. Mệnh đề này chính là điều các nhà khoa học
truy cầu, triết học cũng truy cầu điều
này, các nhà tôn giáo cũng truy cầu điều này, nhưng
đều chưa thể nói rơ ràng. V́ sao họ chẳng nói
rơ ràng? Nay chúng ta hiểu rơ, bọn họ vĩnh viễn chẳng
thể nói rơ ràng, v́ sao? Họ chưa đoạn vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, chưa buông
xuống được, hễ buông xuống sẽ thấu
hiểu! Có những thứ [vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước] này, quư vị nghiên cứu thế nào
đi nữa, đều cách một tầng chướng
ngại, không có cách nào giải thích rơ ràng! Chỉ có buông xuống,
trở về tự tánh. V́ sao? Những thứ này chẳng
thật, hư huyễn. Nếu quư vị không tin, quư vị
có kinh nghiệm nằm mộng hay không? Có! Chúng ta đều
có kinh nghiệm nằm mộng, mộng là thật hay giả?
Thế gian này giống như nằm mộng; v́ thế,
trong kinh, đức Phật rất hay dùng mộng làm tỷ
dụ. “Mộng, huyễn, bọt
nước, bóng dáng”, cái chủ yếu trong tỷ dụ
này là mộng cảnh. “Huyễn,
bọt nước, bóng dáng” đều là những thứ
phụ thuộc, chủ yếu là tỷ dụ này. Do vậy,
trong kinh Kim Cang, đức Phật có một bài kệ vô
cùng nổi tiếng nhằm dạy bảo chúng ta: “Nhất thiết hữu vi pháp,
như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ, diệc
như điển, ưng tác như thị quán” (Hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng, như sương, cũng như chớp, hăy nên quán như
thế). Đây là cái nh́n của đức Phật đối
với chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. “Như lộ, diệc như
điển”, “điển”
(電) là tia chớp, “lộ” (露) là sương buổi
sớm, đây là hai tỷ dụ. “Như điển” là nói về một niệm, giống
như tia chớp, [“như lộ”]
là giọt sương mai, nó tồn tại một lúc, mặt
trời mọc lên bèn bốc hơi, chẳng c̣n nữa! “Bốc
hơi” là nói về tướng tương tục (nối
tiếp liên tục); giống như trong điện ảnh,
chúng ta thấy những h́nh ảnh trên màn bạc; h́nh ảnh
là tướng tương tục do các tấm phim
được rọi sáng kết hợp thành, chẳng thật!
Từ khoa học cận đại, chúng ta có thể hiểu
rất rơ ràng, đâu có ǵ là thật? T́m chẳng được
thứ nào là thật! Nếu thật sự t́m được
cái nào là thật, có thể nói là “vĩnh hằng không thay
đổi”, tối thiểu phải là cơi Thật Báo.
Những
vật trong thế giới Cực Lạc là vĩnh hằng,
không có biến hóa, nhưng chúng cũng chưa phải chân
thật rốt ráo. V́ sao? Kinh bảo cơi Thật Báo xuất
hiện như thế nào? Đoạn hết vô minh, tuy
đoạn sạch vô minh, nhưng tập khí vô minh hăy c̣n,
chưa đoạn hết tập khí. Do vậy, cơi Thật
Báo Trang Nghiêm do tập khí vô minh hiện, chẳng phải là
vô minh. Thật sự đoạn hết vô minh nên chẳng
khởi tâm, chẳng động niệm. Chẳng khởi
tâm, không động niệm, nhưng tập khí quá vi tế,
không riêng ǵ chúng ta chẳng biết, A La Hán không biết, Bích
Chi Phật cũng chẳng biết. Trong kinh, đức Phật
dạy: Từ Thất Địa Bồ Tát trở xuống
đều không biết, từ Bát Địa trở lên mới
nhận biết, mới biết có thứ này tồn tại.
V́ thế, ba đại A-tăng-kỳ kiếp chẳng phải
là nói về công phu tu hành thông thường, mà là nói về đoạn
tập khí vô minh. Không có phương pháp đoạn tập
khí vô minh, chỉ để cho nó mất dần, một thời
gian lâu sau sẽ tự nhiên chẳng c̣n. Để giảng
về thứ vô minh tập khí này, cổ nhân dùng tỷ dụ
để nói; nếu không giảng rơ ràng, chúng ta cũng chẳng
thể lănh hội. Họ dùng b́nh rượu, b́nh rượu
đựng rượu, đổ hết sạch rượu
trong b́nh, lau sạch bên trong, quả thật chẳng có giọt
rượu nào, nhưng vẫn ngửi thấy mùi rượu.
Cái mùi ấy gọi là tập khí. Có cách nào để khử
mùi? Không có phương pháp nào! Chỉ có cách mở toang nắp
b́nh bỏ đó, để một năm hay nửa năm,
sẽ chẳng c̣n ngửi thấy mùi nữa! Tập khí vô
minh của chúng ta phải bao lâu mới hết? Ba
A-tăng-kỳ kiếp. Quư vị đừng quan tâm đến
nó, điều này gọi là “vô công dụng đạo”, quyết
định chớ nên có ư niệm đoạn trừ nó. Hễ
có ư niệm, vô minh sẽ tăng trưởng, khởi hiện
hành. Không để ư tới nó là xong, chẳng c̣n chuyện ấy
nữa!
Do vậy,
trong cơi Thật Báo, quư vị chẳng khác ǵ Phật quả
rốt ráo, chúng sanh hữu duyên trong mười
phương thế giới hễ có cảm, quư vị bèn có
ứng, cảm ứng đạo giao chẳng thể
nghĩ bàn! Như vậy th́ sau khi thành Phật, có phải
là chẳng có Sự hay không? Không phải, Sự rất nhiều.
Sự dẫu nhiều, quư vị chẳng cảm thấy mệt
nhọc, có năng lực ứng phó. V́ sao? Trí huệ, thần
thông, đạo lực toàn bộ hiện tiền. Quư vị
có thể hiện vô lượng vô biên thân, tự tại lắm!
Trăm ngàn ức hóa thân, nơi nào có cảm, nơi đó
bèn có ứng, “nên dùng thân nào
để đắc độ” đều chẳng phải
là ư nghĩ của chính ḿnh, chính ḿnh chẳng có ư nghĩ ǵ.
Hễ chính ḿnh có ư nghĩ, sẽ biến thành phàm phu. Chính ḿnh
chẳng có ư nghĩ ǵ, tự tánh khởi tác dụng. Do vậy,
trong tánh đức, hiện thời chúng tôi đă đọc
kinh Đại Thừa nhiều năm như thế, bèn hiểu
rơ, đúng như Huệ Năng đại sư đă nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự
trọn đủ”. Cái trọn đủ thứ nhất
trong tự tánh là trí huệ, trí huệ là ǵ? Kiến văn giác
tri (thấy, nghe, hay, biết) là tự tánh, là Tánh Đức,
trọn hết thảy các chỗ. Sau khi mê, tự tánh biến
thành A Lại Da. A Lại Da là trạng thái đang mê, kiến
văn giác tri biến thành ǵ? Biến thành Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, chúng ta có cảm nhận, có tư tưởng.
Nói theo bát thức, cũng rất dễ nói: Kiến là nhăn
căn khởi tác dụng, Văn là nhĩ căn khởi tác
dụng; ngoài ra, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể
nếm, thân có thể cảm giác, ư có thể biết bèn khởi
tác dụng. Tác dụng ấy do đâu mà có? Là Tánh Đức
trong tự tánh, kiến văn giác trí là vốn có.
Thân thể
có sanh diệt. Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng
có sanh diệt. V́ thế, người đă chết, đă
tắt thở, thần thức chưa có rời khỏi
[xác thân], thần thức có Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
lũ chúng ta gọi thần thức là “linh hồn”. Linh hồn
có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, chuyện này phiền
phức lắm! Nếu quư vị c̣n có oán hận, c̣n có
đố kỵ, c̣n có chuyện ǵ phải trả thù, từ
đấy, đời đời kiếp kiếp oan oan
tương báo chẳng xong! Chúng ta đọc bài Âm Chất
Văn của Văn Xương Đế Quân, trong phần
đầu, Văn Xương Đế Quân tự nói Ngài
mười bảy đời làm sĩ đại
phu[8].
Quư vị thấy Ngài mười bảy đời nhân
quả báo ứng, thê thảm lắm. Sau này, gặp được
Phật pháp mới giác ngộ, mới hóa giải. Đau khổ
ngần ấy! Báo thù, đôi bên đều đau khổ, cớ
ǵ phải vậy? Do vậy, dù trong nhăn quan của Phật,
những hiện tượng này đều là hư huyễn,
hệt như mộng cảnh, [nhưng phàm phu] ở trong mộng
cảnh thật sự chịu khổ, thật sự có khổ,
sướng, lo, mừng, xả. Sau khi tỉnh mới biết
là trống không. Nay chúng ta đang nằm mộng, chưa tỉnh,
khi nào có thể bỏ được chấp trước
đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, chẳng c̣n chấp trước nữa, tâm quư
vị sẽ khôi phục sự thanh tịnh, tuy thanh tịnh
nhưng c̣n chưa b́nh đẳng. Khôi phục thanh tịnh,
lục đạo chẳng c̣n nữa! Lục đạo là
nhiễm ô, trong tứ thánh pháp giới không có nhiễm ô,
nhưng nó bất b́nh đẳng, v́ có phân biệt. Không có chấp
trước, nhưng có phân biệt, nên là bất b́nh đẳng.
Nếu quư vị buông phân biệt, vọng tưởng xuống,
b́nh đẳng giác sẽ hiện tiền. Buông phân biệt
xuống sẽ b́nh đẳng, chẳng phân biệt sẽ
b́nh đẳng, buông khởi tâm động niệm xuống
bèn giác. Tựa đề kinh Vô Lượng Thọ đă dạy
chúng ta ba giai đoạn trong Hạnh môn: Thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác. Tu điều ǵ? Tu những điều này,
ba món này đều có sẵn trong tự tánh. Nay chúng ta mê mất
tự tánh, nên mới sanh ra chướng ngại, đó là
nghiệp chướng, chẳng biết chân tướng sự
thật. Biết chân tướng sự thật, trọn khắp
pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể,
không phải là “một nhà”, mà là một Thể, chẳng
hai, “sanh Phật bất nhị”.
“Sanh” là chúng sanh, “Phật” là chư Phật, sanh
- Phật bất nhị! Phật rất khiêm hư, đặt
chúng sanh ở phía trước, nói chúng sanh trước rồi
mới nói đến Phật, sanh Phật bất nhị!
Những điều này đều là Tánh Đức lưu
lộ.
Trong kinh Hoa
Nghiêm, quư vị thấy Thiện Tài viên măn Bồ Đề
trong một đời, Ngài đắc Căn Bản Trí
nơi Văn Thù Bồ Tát, chúng ta phải hiểu: Ngài đắc
thanh tịnh tâm, đắc b́nh đẳng tánh, đă giác rồi.
Cũng có nghĩa là “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác” như trong tựa đề kinh Vô
Lượng Thọ Ngài đều đạt được,
cũng có nghĩa là Ngài đă hoàn toàn buông vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước xuống, đạt
được “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”. Sau khi đạt được,
bèn vận dụng trong cuộc sống hằng ngày, vận
dụng vào công việc, v́ sao? Nhục thân vẫn ở trong
thế gian này, vẫn chưa vứt bỏ thân thể này.
Nói cách khác, quư vị vẫn phải sống, vẫn phải
mặc áo, ăn cơm, vẫn phải làm việc. Do vậy,
Ngài có thể vận dụng thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác trong cuộc sống, vận dụng vào công việc, vận
dụng xử sự, đăi người, tiếp vật, là
ǵ vậy? Chính là năm mươi ba lần tham học.
Chúng ta từ sáng đến tối, coi những người
quư vị tiếp xúc trong xă hội là năm mươi ba lần
tham học. Ngài chia xă hội muôn h́nh muôn vẻ thành năm
mươi ba loại. Quư vị vừa tiếp xúc, trí huệ
bèn khởi tác dụng, đó gọi là Hậu Đắc Trí.
Hậu Đắc Trí là ǵ? Hậu Đắc Trí là Căn Bản
Trí khởi tác dụng. Khởi tác dụng linh hoạt tột
bực, chẳng khô cứng mà sống động, hoạt
bát, mọi mặt viên dung, người Hoa nói là “bát diện linh lung” (tám mặt
lóng lánh), đắc đại tự tại. Kinh Hoa Nghiêm
nói “Lư Sự vô ngại, Sự
Sự vô ngại”, cảnh giới này hiện tiền. Tới
cuối cùng, quy vào đâu? Cuối cùng quy vào thế giới
Cực Lạc. Quư vị thấy khi Thiện Tài tham học,
vị [thiện tri thức] thứ nhất, “tiên nhập vi chủ” (điều
ǵ tiếp xúc trước sẽ thành chủ yếu), là tỳ-kheo
Đức Vân. Tỳ-kheo Đức Vân tu ǵ? Tu Ban Châu tam-muội,
chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Điều này đúng là đă nói rơ Thiện Tài đồng
tử tu pháp môn nào? Tu pháp môn Niệm Phật. Vị thầy
đầu tiên mà! Vị thứ năm mươi ba là Phổ
Hiền Bồ Tát, mười đại nguyện
vương dẫn về Cực Lạc. Quư vị nh́n vào vị
mở đầu và vị kết thúc, sẽ biết rơ Thiện
Tài tu pháp môn ǵ. Thiện Tài là học tṛ ngoan của thầy!
Văn Thù Bồ Tát phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ,
Phổ Hiền Bồ Tát cũng phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ. Học sinh theo thầy cùng nhau tu Tịnh Độ,
học sinh ngoan!
Như vậy
th́ Tịnh Độ là kinh Vô Lượng Thọ; c̣n Hoa
Nghiêm và Pháp Hoa tới cuối cùng quy vào đâu? Quy vào kinh Vô
Lượng Thọ; do vậy, kinh Vô Lượng Thọ trở
thành kinh đệ nhất, thật sự là kinh đệ
nhất. Kinh Vô Lượng Thọ có bốn mươi tám
phẩm, nếu chúng ta tiếp tục không ngừng truy t́m,
phẩm nào là bậc nhất? Trong bốn
mươi tám phẩm, kinh văn của phẩm nào là quan
trọng nhất? Đương nhiên là phẩm thứ sáu.
Phẩm thứ sáu do chính A Di Đà Phật nói, Thích Ca Mâu Ni Phật
thuật lại cho chúng ta biết. Đây là A Di Đà Phật
trong khi tu nhân đă phát ra bốn mươi tám nguyện. Bốn
mươi tám nguyện, trong bốn mươi tám nguyện
này, nguyện nào quan trọng nhất? Cổ đại
đức cho biết: Nguyện thứ mười tám. Nguyện
thứ mười tám là “khi lâm chung, một niệm hay
mười niệm đều có thể văng sanh thế giới
Cực Lạc”, tuyệt quá! Như vậy th́ thập
phương tam thế hết thảy chư Phật Như
Lai ứng hóa trong mười pháp giới và lục đạo
của vô lượng vô biên các cơi Phật, dùng ǵ để
giáo hóa, tiếp dẫn chúng sanh, giúp chúng sanh thành Phật
trong một đời? Đều bằng pháp môn này. Nói
cách khác, Tịnh Độ Tam Kinh, kinh Vô Lượng Thọ,
kinh Di Đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật là những
kinh mà tất cả chư Phật Bồ Tát hóa độ lục
đạo chúng sanh trong mười pháp giới nhất
định phải giảng! Đây là phương thức
độ chúng sanh chủ yếu của các Ngài, hết thảy
các kinh giáo khác đều là kèm theo, c̣n những kinh này là chủ
yếu nhất, chúng ta phải có nhận thức này. V́ sao giảng
những kinh khác? Chúng sanh không tin Tịnh Độ, chẳng
thể tiếp nhận, họ thích những thứ khác. Thích
điều ǵ, tôi bèn giảng cho quư vị điều ấy.
Giảng đến cuối cùng đều trở về đây,
diệu tuyệt chẳng thể nghĩ bàn! Bất luận
Tông Môn hay Giáo Hạ, quư vị thấy những đại
đức trong Thiền Tông đến tuổi già chuyên niệm
A Di Đà Phật, cầu sanh thế giới Cực Lạc.
Trong Văng Sanh Truyện có rất nhiều [trường hợp
như vậy]; tông Hoa Nghiêm chẳng cần phải nói nữa!
Mười đại nguyện vương dẫn về Cực
Lạc. Tông Thiên Thai, bản thân Trí Giả đại sư
tu hành theo Quán Vô Lượng Thọ Kinh, [kinh này] c̣n gọi
là Thập Lục Quán Kinh, Ngài văng sanh thế giới Cực
Lạc. Từ những tổ sư đại đức này,
chúng ta bèn nhận ra pháp môn này và bộ kinh này đúng là Nhất
Thừa.
“Liễu nghĩa” là ǵ? Dùng một
câu trong Phật pháp để giải thích, “cứu cánh hiển liễu” (phơi bày rơ rệt
đến tột cùng), “hiển”
(顯) là minh hiển (sáng tỏ, rơ rệt), sáng
tỏ đến tột cùng là “liễu
nghĩa”. Ví như trong kinh Đại Thừa, đức
Phật đă dạy chúng ta: “Phiền
năo tức Bồ Đề, sanh tử tức Niết Bàn”,
đây là ư nghĩa rơ rệt đến tột cùng. Khi mê gọi
là “phiền năo”, lúc giác ngộ gọi là Bồ Đề. Lúc
mê có sanh tử, khi giác ngộ gọi là Niết Bàn; chỉ
có mê hay ngộ. Trừ mê và ngộ ra, đích xác là hết
thảy các pháp đều bất nhị. Trong quá khứ,
chúng ta từng học pháp môn “mười
hai món Bất Nhị” của tông Thiên Thai, đó là hiển
liễu đến tột cùng. Liễu nghĩa, nói
đơn giản nhất, sau khi chúng ta học xong sẽ
hưởng thụ chân thật th́ đó là “liễu nghĩa”. Nếu chẳng chân thật
hưởng thụ, chẳng phải là liễu nghĩa!
Chúng ta hỏi: Chúng ta học pháp môn này, mong có thể liễu
sanh tử, thoát tam giới, có thể chứng đắc quả
vị vô thượng Bồ Đề, pháp môn này có đáp ứng những điều ấy
hay không? Được chứ! Pháp môn này là liễu
nghĩa, thật sự có thể giúp đỡ, thành tựu
chúng ta. Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
tuy chưa thành Phật, nhưng cũng như đă thành
Phật, người ấy thật sự gần như
thành Phật, điều này do chính A Di Đà Phật nói.
Trong bốn mươi tám nguyện có nói: Sanh về thế
giới Cực Lạc “giai tác A
Duy Việt Trí Bồ Tát” (đều là Bất Thoái Chuyển
Bồ Tát). Kinh Vô Lượng Thọ nói như thế, kinh Di
Đà cũng dạy như thế, Quán Kinh cũng giảng
như thế, ba kinh đều có câu này. A Duy Việt Trí là hạng
Bồ Tát nào? A Duy Việt Trí (Avaivartika) là tiếng Phạn,
dịch sang nghĩa tiếng Hán là “Bất Thoái Chuyển”. Trong
ba thứ Bất Thoái Chuyển, môn thứ nhất là Vị
Bất Thoái, môn thứ hai là Hạnh Bất Thoái, môn thứ
ba là Niệm Bất Thoái, chẳng tuyệt lắm sao? Nói
thông thường, hàng Bồ Tát nào chứng đắc Tam Bất
Thoái? Chúng ta nói theo nghĩa rộng th́ minh tâm kiến tánh mới
chứng đắc, [người như vậy] c̣n gọi
là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh giống như Huệ Năng đại sư đă chứng
đắc. Bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo như kinh Hoa
Nghiêm đă nói, vượt thoát mười pháp giới. Kẻ
c̣n thuộc trong mười pháp giới chắc chắn chẳng
thể [chứng đắc ba thứ Bất Thoái]. A La Hán
thuộc trong mười pháp giới là Vị Bất Thoái, chẳng
đạt được những thứ khác như Hạnh
Bất Thoái và Niệm Bất Thoái, chỉ có Vị Bất
Thoái. Pháp Thân Bồ Tát mới thật sự trọn đủ
ba món Bất Thoái này. Nói nghiêm ngặt, từ bậc Thất
Địa trong Viên Giáo trở lên mới thật sự Bất
Thoái, c̣n sao nữa? Đối với chuyện văng sanh, kinh
chẳng nói, chẳng bảo “kẻ Hạ Hạ phẩm
văng sanh trong cơi Đồng Cư không thuộc vào trường
hợp này!” Chẳng nói câu ấy! Có nghĩa là: Chỉ cần
sanh sang thế giới Cực Lạc, Hạ Hạ phẩm
trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư cũng là A Duy Việt Trí Bồ
Tát. Phương pháp khó tin này, ai có thể tin tưởng?
Trong kinh cũng
có tỷ dụ sau đây. Qua tỷ dụ, chúng ta có thể
biết rơ các tin tức. Như người sanh vào thế
gian này, vừa sanh ra liền hưởng tôn quư như đế
vương, có thể đạt được phước
báo lớn như thế hay không? Không được! Đâu
có năng lực ấy! Nếu quư vị sanh trong nhà quốc
vương, làm vương thái tử, há chẳng đạt
được ư? Chẳng phải là không có, nhưng quá
ít. Thế nhưng, sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế
giới, A Di Đà Phật là quốc vương, toàn bộ
[nhân dân] đều là vương tử, quư vị hưởng
phước của ai? Phước của phụ
vương. Do vậy, sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, kẻ Hạ Hạ phẩm văng sanh đều
được bổn nguyện gồm bốn mươi
tám nguyện của A Di Đà Phật gia tŕ, tu pháp môn khác chẳng có được điều
này. Bất luận pháp môn nào khác đều chẳng có cách
nói này, chỉ có Tịnh Độ Tam Kinh nói như thế!
V́ thế, nói: Chúng ta được Phật gia tŕ, Phật
lực gia tŕ. Trí huệ của Phật gia tŕ chúng ta, khiến
trí huệ của chúng ta giống như trí huệ của Phật;
công đức của Phật gia tŕ chúng ta, khiến công
đức của chúng ta giống như Phật, phước
báo của Phật gia tŕ chúng ta, khiến phước báo của
chúng ta giống như Phật, mọi điều đều
do lẽ này, chẳng phải do chính ḿnh, chuyện là như
vậy đó! Khi nào chính quư vị có năng lực này, không
cần Phật gia tŕ nữa? Trong thế giới Cực Lạc,
quư vị đă chứng đắc từ Thất Địa
Bồ Tát trở lên sẽ không do Phật gia tŕ, [trí huệ, phước báo, công đức] là của
chính ḿnh. Trước khi đắc Thất Địa, tất
cả đều do Phật lực gia tŕ. Điều
này thù thắng khôn sánh, hy hữu khôn sánh, quư vị nói xem: Quư
vị có thể chẳng chọn pháp môn này hay chăng? Người
chẳng học pháp môn này không ít, người nào vậy? Kẻ
rất tự phụ, tự nghĩ ḿnh ghê gớm lắm,
không cam ḷng, không bằng ḷng làm con nuôi của A Di Đà Phật.
Những kẻ này muốn tự lực. Được
thôi! Quư vị cứ tà tà mà học! Quư vị phải đi
theo một con đường rất dài, thật đấy!
Nếu quư vị quyết theo A Di Đà Phật, quư vị rất
may mắn, thành tựu rất nhanh! Đây là Nhất Thừa
liễu nghĩa, câu này viết hay quá!
“Vạn thiện đồng quy”:
Chữ “vạn” này không phải
là con số, mà có nghĩa là viên măn. Hết thảy các thiện
pháp thế gian và xuất thế gian quy vào đâu? Quy vào A Di
Đà Phật. A Di Đà Phật là ǵ? A Di Đà Phật là
Tánh Đức, A Di Đà Phật là danh hiệu của tự
tánh. Dịch theo văn tự, câu này là dịch âm từ tiếng
Phạn, A là Vô, Di Đà là Lượng, Phật nghĩa là
ǵ? Trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật dùng
hai chữ để giải thích ư nghĩa [của danh hiệu]
Phật: Một là Quang, hai là Thọ. Quang tượng
trưng điều ǵ? Quang tượng trưng không gian, Thọ
tượng trưng thời gian. Nay chúng ta nói “thời -
không” (thời gian và không gian) th́ trong “thời - không” đă bao
hàm hết thảy thiện pháp đều chẳng ĺa A Di
Đà Phật. A Di là Vô Lượng, vô lượng quang, vô
lượng thọ, hoàn toàn là tự tánh, là vạn thiện
đồng quy. Quư vị niệm câu Nam-mô A Di Đà Phật
là niệm Nhất Thừa liễu nghĩa, vạn thiện
đồng quy. Như chúng tôi vừa mới báo cáo
đơn giản cùng quư vị: Một câu A Di Đà Phật
bao quát toàn bộ vô lượng Phật hiệu được
tuyên dương trong thập phương tam thế từ
vô lượng kiếp đến nay. Một câu A Di Đà Phật
triển khai thành bốn mươi tám nguyện, bốn
mươi tám nguyện triển khai thành kinh Vô Lượng
Thọ, kinh Vô Lượng Thọ triển khai thành Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, kinh Hoa Nghiêm triển
khai thành hết thảy các pháp do đức Thế Tôn đă
nói trong bốn mươi chín năm. A Di Đà Phật là tổng
cương lănh, là tột đỉnh của hết thảy
các pháp do hết thảy chư Phật Như Lai đă nói; nhận biết rơ ràng điều này chẳng
dễ dàng đâu nhé! Tôi học Phật gần như
ba mươi năm mới hiểu chuyện này, cảm thấy
may mắn khôn sánh, vui mừng khôn sánh, cũng chẳng c̣n
chao đảo nữa, chẳng hoài nghi nữa! Như thế
th́ tám chữ trong hai câu này đă nói trọn vẹn những
điều đó!
Tiếp
đó là “tam căn phổ bị,
phàm thánh tề thâu”, đây là nói đến căn cơ tương
ứng với pháp này, đối tượng được
giáo hóa bởi pháp môn này. Tam căn là thượng trung hạ
tam căn. Thượng căn là căn tánh Đại Thừa,
trung căn là căn tánh Duyên Giác, hạ căn là căn tánh
Thanh Văn, [trung căn và hạ căn] là căn tánh Tiểu
Thừa. Toàn bộ ba thứ căn tánh đều có phần
[trong pháp môn Tịnh Độ]. Thậm chí ngay cả kẻ
chẳng biết chữ, chưa hề tiếp xúc học
thuật thế gian hay xuất thế gian nào, người
trong nước thường gọi hạng người ấy
là “không có văn hóa”, mà nếu có thể tin, tin sâu xa chẳng
nghi ngờ, nếu kẻ ấy thật sự phát tâm cầu
sanh Tịnh Độ, nhất định được
văng sanh. Trường hợp này rất nhiều, trong Văng Sanh
Truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, hạng
người như vậy tối thiểu chiếm hơn
một phần ba. Do nguyên nhân nào? V́ sao hễ nói với các
ông già bà cả, họ bèn tin, c̣n phần tử tri thức chẳng
tin? Tôi học Phật rất khó khăn, tiên sinh Phương
Đông Mỹ giới thiệu Phật pháp cho tôi. Nếu
tôi không học Triết Học với cụ, nếu cụ
không giảng Triết Học trong kinh Phật, giảng môn này,
tôi vĩnh viễn chẳng tiến vào cửa Phật, từ
chỗ này mà nhận biết Phật giáo. Sau khi đă tiến
vào Phật môn, lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam là học tṛ của
Ấn Quang đại sư, là người hoằng truyền
Tịnh Độ Tông, tôi học kinh giáo, học giảng
kinh với cụ. Thoạt đầu, tôi hoài nghi pháp môn Tịnh
Độ, nghĩ đây là pháp phương tiện của
Thích Ca Mâu Ni Phật nhằm tiếp dẫn các bà già! Quan niệm
[lệch lạc này] rất sâu, thành kiến rất sâu! Theo
thầy Lư nhiều năm như thế, theo thầy mười
năm, thầy rát miệng buốt ḷng giới thiệu pháp
môn này với tôi, tôi đọc [kinh sách Tịnh Độ]
chẳng hoài nghi, không dám khi dễ, chẳng dám khinh mạn
pháp môn này, cũng rất tôn trọng, nhưng chẳng có ư
nghĩ muốn học, hứng thú đều đặt
nơi kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm do thầy Phương giới
thiệu thuở ấy có ảnh hưởng rất lớn
đối với tôi!
Khi nào tôi
mới tin tưởng Tịnh Độ? Cũng phải là
khi đă học Phật được hai mươi năm,
tôi bắt đầu giảng kinh Hoa Nghiêm. Lúc ấy, mỗi
tuần giảng ba ngày, mỗi ngày một tiếng rưỡi,
không có máy thâu h́nh, ngay cả máy thâu âm cũng không có. Tôi giảng
lần thứ nhất, h́nh như cũng giảng chẳng
ít năm, giảng được phân nửa [bộ kinh]. Lúc
đó, giảng Bát Thập Hoa Nghiêm và Tứ Thập Hoa
Nghiêm cùng một lúc; cứ hai ngày giảng Bát Thập Hoa
Nghiêm th́ một ngày giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm, giảng
hai kinh cùng nhau. Giảng gần hơn phân nửa, có một
hôm, bỗng nghĩ Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ
Tát tu pháp môn ǵ? Thiện Tài đồng tử tu pháp môn ǵ? Do
chưa giảng đến phần sau kinh, bèn lật phần
sau ra xem, vừa mở phần sau ra xem, bèn sững sờ, cớ
sao Văn Thù, Phổ Hiền đều phát nguyện cầu
sanh thế giới Cực Lạc? Lại xem kỹ phần
nói về Thiện Tài đồng tử bèn thấy rơ. Quư vị
thấy tôi giảng đến phân nửa, toàn là đọc
theo kiểu “nuốt trộng quả táo”, chẳng phát hiện
chuyện này! Thiện Tài kế thừa pháp mạch của
thầy, là đệ tử nhập thất, là đệ tử
truyền pháp của Văn Thù Bồ Tát, chẳng phải là
người tầm thường; nếu thầy phát nguyện
cầu sanh Tịnh Độ, học tṛ đâu có ngoại
lệ? Do vậy, sau đó, tôi quay trở lại xem những
phần đă giảng qua, xem lại. Khi ấy, tôi dùng bản
Tứ Thập Hoa Nghiêm, [tỳ-kheo Đức
Vân được Tứ Thập Hoa Nghiêm] dịch là tỳ-kheo
Cát Tường Vân, phần này tôi cũng đă giảng xong!
Kinh nói rơ ràng Ngài tu Ban Châu tam-muội, tôi cũng giảng rất
rơ ràng, nhưng không liên kết Thiện Tài với pháp môn Niệm
Phật, chẳng liên hệ đến phần trước.
Khi đọc lại, liên kết với phần trước,
mới biết chẳng sai tí nào, Thiện Tài chuyên tu pháp môn
Niệm Phật; chúng ta nói Ngài niệm một câu Di Đà đến
tận cùng!
Năm
mươi ba lần tham học là chuyện như thế
nào? Năm mươi ba lần tham học là học rộng
nghe nhiều, chẳng trở ngại, đúng là Sự Sự
vô ngại, pháp môn ǵ cũng đều tiếp xúc. Hễ tiếp
xúc bèn hiểu rơ, hiểu rơ là tăng trưởng trí huệ,
là Hậu Đắc Trí, chẳng có ǵ không biết. Biết
như thế nào? Đều tiếp xúc, đều hiểu
rơ, chuyện ǵ cũng đều hiểu rơ, pháp nào cũng
đều thông đạt, tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn
nào cũng thông, nhưng như thế nào? Như như bất
động, một câu Di Đà niệm đến cùng;
đối với Hạnh môn của chính ḿnh, chẳng bị
ảnh hưởng mảy may. Đó là công phu định lực
ǵ? Thành tựu viên măn Định Huệ của chính ḿnh!
Không có sự từng trải này, làm sao biết Định
Huệ thành tựu? Pháp môn ǵ cũng đều tiếp xúc,
nhưng chẳng bị ảnh hưởng bởi pháp môn
nào, đều không bị ảnh hưởng. Hai bữa
nay, chúng ta nghe cư sĩ Lưu Tố Vân báo cáo, quư vị thấy
bà ta pháp môn nào cũng đều tán thán “đều hay”, như
vậy đó! Thiện Tài đồng tử giống
như vậy, đối với chúng ta, không chỉ riêng các
pháp môn trong Phật môn đều hay, mà các tôn giáo khác đều
hay. Đă nhiều năm qua, tại các nơi trên thế giới,
tôi làm công tác đoàn kết tôn giáo, mỗi tôn giáo đều
hay, đều đáng tán thán, lễ kính. Tôi cũng đọc
tụng kinh điển của họ, nhưng chẳng trở
ngại niệm Phật. Càng tiếp xúc, càng hiểu rơ. Càng
tiếp xúc, một câu A Di Đà Phật
càng chẳng thể nghĩ bàn,
thích hợp khắp ba căn, thâu tiếp phàm lẫn thánh. Chúng
ta là phàm nhân, Văn Thù, Phổ Hiền là thánh nhân, đều
sanh về thế giới Cực Lạc.
“Hoành siêu tam giới”: Tám vạn bốn ngàn pháp môn được
gọi là Thụ Xuất (thoát
ra theo chiều dọc), tức là nâng cao lên từng bước
một, giống như các địa vị của hàng Bồ
Tát. Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy có năm mươi mốt
địa vị, từ địa vị Thập Tín, Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, tới
Thập Địa là năm mươi địa vị;
trên nữa là Đẳng Giác, trên nữa là địa vị
Diệu Giác, c̣n gọi là địa vị Phật. Thụ
xuất đấy! Pháp môn Tịnh Độ này không cần,
[tiến lên từng bước như vậy] phiền quá,
thời gian quá dài, hoành siêu! Nay chúng ta đang thuộc nhân
đạo, không cần từ nhân đạo sanh lên thiên
đạo. Thiên th́ c̣n có hai mươi tám tầng trời, vượt
lên từng tầng một, tốn công lắm! Từ ngay
trong nhân đạo vượt ra theo chiều ngang (hoành
siêu), trở về thế giới Cực Lạc, đó là “hoành
xuất”, không cần phải trải qua những phiền
phức như thế. Thật sự làm được! Chuyện
này chẳng giả đâu! Trong cuộc đời này, tôi
đă gặp mấy người niệm Phật văng sanh,
biểu diễn, thị hiện cho chúng ta thấy: Chẳng
ngă bệnh, biết trước lúc mất, đứng văng
sanh, ngồi văng sanh. Khoảng bốn mươi năm
trước đây, Phật Quang Sơn thành lập học
viện Đông Phương Phật Giáo, pháp sư Tinh Vân mời
tôi làm chủ nhiệm giáo vụ, tôi ở trên núi ấy
mười tháng. Trong thời gian ấy, nghe một công nhân
dài hạn [kể chuyện]. Phật Quang Sơn công tŕnh rất
nhiều, suốt năm chẳng nghỉ ngơi, không ngừng
xây cất, cho nên công nhân ở đó cũng làm việc cho Phật
Quang Sơn nhiều năm. Buổi tối, tôi hướng
dẫn một vài người học tṛ thảo luận Phật
pháp, người công nhân ấy cũng tham dự, nói với
chúng tôi: Năm ngoái, một bà cụ hàng xóm của ông ta niệm
Phật, đứng văng sanh. Ông ta bảo: “Thật đấy,
chẳng giả tí nào!” Hôm ấy, chúng tôi nghe ông ta kể
chuyện, hết sức hứng thú.
Bà cụ
ấy tâm địa hết sức tốt, hết sức từ
bi, cũng chẳng hiểu Phật pháp, đâm ra coi lạy
thần như lạy Bồ Tát, ông Địa cũng là Bồ
Tát, Thành Hoàng cũng là Bồ Tát, những loại
Vương Gia Công[9] mà dân gian thờ cúng, cụ đều
nghĩ là Bồ Tát. Ba năm trước, cụ cưới
dâu, con dâu học Phật, hiểu Phật pháp, liền khuyên
mẹ chồng chuyên niệm A Di Đà Phật, chuyên lạy
Tây Phương Tam Thánh, những vị thần khác đều
thỉnh đi, Bồ Tát đều thỉnh đi. Bà mẹ
chồng này hiếm có, nghe lời con dâu khuyên bảo, thật
sự làm, chỗ nào cũng không tới; b́nh thường hễ
miếu nào có lễ hội đều
tham gia, cụ không đi nữa, ở nhà niệm Phật, trong
nhà lập Phật đường, [tụng niệm] ba
năm. Đến một tối nọ, đến bữa
cơm tối, cụ dặn ḍ con trai, con dâu; con trai, con dâu
vô cùng hiếu thuận, cụ bảo: “Các con dùng cơm
trước, mẹ đi tắm”. Thật ra, cả nhà
đợi cụ, đợi thật lâu chẳng thấy
cụ ra. Tới pḥng tắm, coi cụ đă tắm xong
chưa, gọi chẳng thấy ai trả lời. Tới Phật
đường, thấy cụ mặc áo tràng chỉnh tề,
tay cầm chuỗi, đứng trước tượng Phật,
gọi chẳng thấy cụ trả lời, tới nh́n kỹ,
cụ đă văng sanh rồi. Hàng xóm đều đến xem,
cụ đứng mất! Chúng tôi nghĩ: Có lẽ cụ
chẳng báo cho người nhà biết; cho người nhà biết,
sợ họ sẽ ngăn trở, cụ chẳng thể tự
tại dường ấy. Đúng là tự tại, tiêu sái ra
đi, chính mắt ông ta trông thấy, chẳng giả. Vị
công nhân dài hạn ấy đă giảng cho chúng tôi nghe một
bài học do chính mắt ông ta thấy.
Khi tôi
đến Hương Cảng giảng kinh, chúng tôi nghe
băng thâu âm lời khai thị trong Phật Thất của
pháp sư Đàm Hư, tôi nghe thấy lăo nhân gia giảng rất
nhiều. Sau đó, qua tác phẩm Ảnh Trần Hồi Ức
Lục [biết thêm nhiều chuyện văng sanh], đấy
là truyện kư về lăo nhân gia do Ngài kể, học tṛ Ngài
là pháp sư Đại Quang ghi chép. Chúng tôi cũng hết sức
thân thiết với ngài Đại Quang, Sư văng sanh chắc
cũng đă mười năm rồi. Ba mươi
năm trước, ở Hương Cảng, chúng tôi thường
ở chung một chỗ. Văn tài của Sư hết sức
hay, Ảnh Trần Hồi Ức Lục do Sư viết,
toàn là chuyện thật. Gần đây nhất, chừng ba
năm trước đây, ở Thâm Quyến có cư sĩ
Hoàng Trung Xương ba mươi mấy tuổi, nghe tôi giảng
kinh, nghe nói từ xưa tới nay người thật sự
niệm Phật khoảng chừng ba năm công phu thành tựu
bèn văng sanh. Trong quá khứ, đă từng có mấy vị
pháp sư hỏi tôi, bọn họ thấy những trường
hợp ấy, bèn nói: Có phải là những người văng
sanh ấy thọ mạng vừa đúng ba năm là hết
[nên văng sanh sau ba năm niệm Phật]
đó chăng? Tôi nghĩ nói kiểu này chẳng hợp lư, thỉnh
thoảng có một hai người th́ được, chứ
nhiều người như vậy sẽ chẳng hợp với
lư luận, không hợp la-tập (logic). V́ sao văng sanh? Người
ấy công phu đă thành phiến. Chỉ cần công phu thành
phiến, quư vị muốn ra đi lúc nào cũng được!
Muốn đi th́ đi; muốn ở lại cũng
được! Ở lại thế gian này là do có nhiệm
vụ, có sứ mạng, làm cho người khác thấy.
Nếu chẳng có duyên phận với thế gian này,
người ấy đă ra đi. Lúc ấy, cư sĩ
Hoàng Trung Xương bế quan tại Thâm Quyến ba
năm, ông ta nghĩ: “Hăy thử xem, cổ nhân ba năm có thể
thành tựu. Xem ta có đúng ba năm thật sự thành tựu
hay không?” [Bế quan niệm Phật] hai năm mười
tháng, c̣n thiếu hai tháng, ông ta biết trước lúc mất,
thật sự ra đi, chẳng ngă bệnh. Khi hỏa táng,
lưu lại xá-lợi, nay xá-lợi vẫn c̣n thờ ở
nơi ấy, làm một cái tháp nhỏ đặt ở
đó. Nêu gương cho chúng ta, thật đấy, chẳng
giả đâu!
Tin thật,
nguyện thiết tha, không ai chẳng thành tựu, đừng
bỏ lỡ cơ hội! Từ vô lượng kiếp đến
nay sanh tử luân hồi trong lục đạo, khổ chẳng
thể nói được! Suốt đời này quư vị gặp
cảnh khổ vẫn chưa phải là Đại Khổ.
Trong quá khứ, quư vị từng nếm mùi địa ngục,
nếm mùi ngạ quỷ, nếm mùi súc sanh, cũng đă từng
làm thân trời; nếu nghĩ đến nỗi khổ
trong tam đồ, quư vị c̣n muốn ở đây để
làm ǵ nữa? Nếu chẳng thoát khỏi lục đạo
luân hồi, nói cách khác, đối với bất cứ ai,
cũng dám chắc là thời gian trong tam đồ lâu dài, thời
gian trong nhân thiên ngắn ngủi. V́ sao? Chúng ta học Pháp
Tướng Duy Thức bèn biết: Trong A Lại Da thức,
đối với Tương Ứng Tâm Sở, Thiện Tâm
Sở chỉ có mười một món, Ác Tâm Sở có hai
mươi sáu món, chứng tỏ trong tập khí của quư
vị, thiện ít, ác nhiều. Giáo dục của cổ
thánh tiên hiền chẳng có dụ dỗ, mê hoặc. Sự
dụ dỗ, mê hoặc bên ngoài hiện thời toàn là giết,
trộm, dâm, dối, toàn là bạo lực, t́nh dục, c̣n ǵ
nữa đâu? Thế giới ngày nay v́ sao loạn? Tai nạn
v́ sao nhiều? Nguyên nhân là như vậy. Quư vị c̣n có thể
không văng sanh ư? Thật sự giác ngộ, phát tâm đại
từ bi, trụ nơi đây thêm vài năm nữa, chịu
tội thêm một chút, mong mang thêm một ít người
cùng đi, đấy là sứ mạng. Có người tiếp
nhận, có người nghe lọt tai, có người tin
tưởng th́ chúng ta vẫn phải làm, một người
cũng chẳng bỏ, tới lúc công đức viên măn, tự
nhiên ra đi. Ra đi cũng thị hiện rất tốt
đẹp cho mọi người thấy, giống như
ông Hoàng Trung Xương, giống như bà cụ niệm Phật
ở Đài Nam. Dù bà cụ suốt đời cũng không biết
giảng kinh, cũng chẳng biết hoằng pháp, sự biểu
hiện của cụ đă độ bao nhiêu người,
khiến cho bao nhiêu người dấy lên ḷng tin, khiến
cho bao nhiêu người hóa giải nỗi hoài nghi đối
với Tịnh Độ. Đây là Tác Chứng Chuyển
trong Tam Chuyển Pháp Luân; nay mọi người đ̣i hỏi
chứng cứ, bèn tạo chứng cứ cho quư vị xem.
“Kính đăng tứ độ”, “kính” (逕) là nhanh chóng, “tứ
độ” là Phàm Thánh Đồng Cư Độ, Phương
Tiện Hữu Dư Độ, Thật Báo Trang Nghiêm Độ
và Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Tây
Phương Cực Lạc thế giới hết sức
đặc thù. Trong các thế giới khác của chư Phật,
tứ độ có giới hạn, chẳng ở cùng một
chỗ. Thế giới Sa Bà này là báo độ của Thích
Ca Mâu Ni Phật, tứ độ chẳng cùng một chỗ.
Chúng ta chỉ là nhân đạo trong lục đạo, nhân
đạo là Phàm Thánh Đồng Cư Độ, có Phật,
Bồ Tát ở trên địa cầu hay không? Có chứ! Nhưng
phàm phu chúng ta chẳng thấy các Ngài, người có duyên phận
đặc biệt sẽ đôi khi thấy, các Ngài cũng
không cho quư vị thường thấy. Đâu Suất Thiên là
Phàm Thánh Đồng Cư Độ; trời Đâu Suất
có nội viện và ngoại viện. Ngoại viện là phàm
phu, phàm phu chẳng thấy Bồ Tát trong nội viện,
thật sự có chướng ngại! Nhưng trong thế
giới Cực Lạc không có chướng ngại này, bốn
cơi không có giới hạn, đều ở cùng một chỗ.
Do vậy, người văng sanh Hạ Hạ phẩm trong Phàm
Thánh Đồng Cư đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới, có thể thấy Quán Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền trong cơi Thật
Báo, đều có thể trông thấy. Không chỉ trông thấy,
mà mỗi ngày c̣n học cùng một chỗ, cùng nghe A Di
Đà Phật giảng kinh, mỗi ngày cùng học tập một
chỗ, duyên này t́m ở đâu ra? Thông thường, không phải
cùng một tầng lớp, sẽ chẳng thể ở
chung một chỗ. Như bậc Sơ Trụ Bồ Tát
trong kinh Hoa Nghiêm đúng là giống như chúng ta học tập
trong nhà trường: Quư vị thuộc lớp Một, hết
thảy mọi người trong pḥng học đều là lớp
Một, không có cách nào chuyển sang pḥng học của lớp
Hai, t́nh h́nh như thế đó! Theo kinh Hoa Nghiêm, Sơ Trụ
Bồ Tát chẳng thấy Nhị Trụ, nhưng Nhị Trụ
có thể thấy Sơ Trụ, Sơ Trụ chẳng thấy
Nhị Trụ; nhưng thế giới Cực Lạc là b́nh
đẳng, giống như là học sinh của năm
mươi mốt lớp học đều cùng một chỗ.
Tôi dùng tỷ dụ này, có lẽ mọi người hiểu
được, học cùng một pḥng học, quư vị
hoàn toàn thấy được.
V́ thế,
sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới là sanh
trọn bốn cơi, các cơi ấy ở cùng một chỗ, trong
ấy chẳng có chướng ngại. Nay chúng ta nói không
gian duy thứ (chiều không gian, spatial dimensions), Cực Lạc
không có không gian duy thứ, đều thấy hết. Không
chỉ có chỗ tốt đẹp này, mà sanh sang Tây
Phương Cực Lạc thế giới, quư vị mỗi
ngày có năng lực đi lạy vạn Phật. Chữ “vạn” này không phải là con
số, mà [có nghĩa] là vô lượng vô biên chư Phật
Như Lai. Quư vị có thể tới thân cận, cúng dường
các vị Phật. Cúng dường là ǵ? Tu phước, nghe
Phật thuyết pháp, khai trí huệ. Ở đây, chúng ta t́m
một vị thầy tốt đẹp không ra, tới thế
giới Cực Lạc, mỗi ngày bèn có vô lượng vô
biên chư Phật thuyết pháp cho quư vị. Đi bằng
cách nào? Hóa thân tới, thân của quư vị đang ở trước
mặt A Di Đà Phật chẳng động, phân thân
đi. Quư vị có thể phân ra vô lượng vô biên thân. Quư
vị thấy trong kinh Di Đà, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng
rất rơ ràng: Mỗi ngày cúng dường mười vạn
ức Phật. “Mười vạn
ức” là biểu thị pháp, v́ thế giới Sa Bà cách thế
giới Cực Lạc mười vạn ức cơi Phật,
nghĩa là ǵ? Quư vị tới thế giới Cực Lạc,
mỗi ngày đều có thể trở về thăm [Sa Bà],
mang ư nghĩa như vậy. Chẳng phải là quư vị c̣n
có t́nh chấp đối với thế giới này ư? Cha
mẹ, thầy, người nhà, quyến thuộc trong đời
đời kiếp kiếp ở tại thế giới
này, chẳng muốn tách rời, mỗi ngày đều có thể
thấy họ, dụng ư ở chỗ này! Trên thực tế,
không phải chỉ có vậy, đâu phải chỉ mười
vạn ức! Cho thấy [người trong Cực Lạc]
có đại thần thông. Tôn Ngộ Không trong Tây Du Kư mới
có bảy mươi hai phép biến hóa, hắn c̣n kém lắm.
Lông trên khắp người hắn, một sợi lông có thể
biến thành một tiểu Tôn Ngộ Không, vẫn là có hạn
lượng! Đến thế giới Cực Lạc, phân
thân không có số lượng. Do vậy, sanh sang thế giới
Cực Lạc là sanh vào hết thảy các cơi Phật, trong các
pháp môn khác không có điều này. Quư vị nói có thù thắng
lắm hay không?
“Cực viên cực đốn, bất
khả tư nghị chi vi diệu pháp môn”, chẳng giả
tí nào! Quư vị nói xem: Đời này gặp gỡ pháp này,
được làm thân người, gặp gỡ Phật pháp,
gặp được Hoa Nghiêm, gặp Vô Lượng Thọ,
phước báo đă viên măn, đâu có phước báo nào to
lớn như thế! Đâu may mắn như thế! Hoàn
toàn đạt được. Nếu quư vị chẳng biết
quư trọng, sẽ là ở ngay trước mặt mà bỏ
lỡ! Con người sống chẳng phải một
đời, mà là đời đời kiếp kiếp,
điều ǵ tiếc nuối lớn nhất? Đây là tiếc
nuối lớn nhất, không có ǵ tiếc nuối hơn nữa!
Gặp cơ hội tốt như vậy, trăm ngàn vạn
kiếp khó gặp gỡ! Thời Càn Long, cư sĩ Bành Tế
Thanh đă nói, vị cư sĩ này cũng rất phi phàm,
ông ta nói: Pháp môn Tịnh Tông là “một
ngày khó thể gặp gỡ từ vô lượng kiếp đến
nay”, [thế mà] quư vị đă gặp. Nói như bây giờ,
Bành Tế Thanh là con em quan chức cao cấp, cha ông ta là Binh
Bộ Thượng Thư của hoàng đế Càn Long, tức
bộ trưởng Quốc Pḥng. V́ vậy, gia thế tốt
đẹp, là người thông minh, chưa đầy hai
mươi tuổi đă đậu Tiến Sĩ, phải
biết là [ông ta thi đậu] năm mười chín tuổi,
chưa được hai mươi, [nếu đủ] hai
mươi tuổi sẽ làm lễ Gia Quan (bới tóc lên, đội
măo). Suốt đời chẳng làm quan, học Phật, hoàn
cảnh gia đ́nh tốt đẹp, học Phật
đúng là học đến nơi đến chốn, Tông,
Giáo, Hiển, Mật viên dung, là đại cư sĩ,
đại đức thời ấy. Đến chỗ này
là một đoạn.
Chúng ta xem
đoạn tiếp theo, “nhi kỳ
trung chi Vô Lượng Thọ kinh giả, năi Tịnh
Độ quần kinh chi thủ yếu, Tịnh tông đại
đức thường xưng vi Tịnh Độ
đệ nhất kinh dă” (nhưng trong ấy, kinh Vô
Lượng Thọ chính là kinh đứng đầu, chủ
yếu trong các kinh Tịnh Độ, các bậc đại
đức trong Tịnh Tông thường gọi kinh này là
kinh Tịnh Độ bậc nhất). Không chỉ là kinh đứng
đầu, chủ yếu trong các kinh Tịnh Độ,
chúng ta có thể nói theo cách như thế này: Kinh này là kinh
đứng đầu, cốt yếu của cả Đại
Tạng Kinh. Do vậy, từ xưa tới
nay, trải qua các triều đại, đặc biệt
là các vị đại đức thời Tùy - Đường,
kinh này được gọi là “Tịnh
Độ đệ nhất kinh”. Luận theo
phương diện thời gian phiên dịch, Tịnh Độ
Tông truyền đến Trung Quốc, bộ kinh [Tịnh
Độ] được phiên dịch đầu tiên là
kinh Vô Lượng Thọ, kinh Di Đà và Quán Kinh được
dịch về sau này. Kinh này được dịch sớm
nhất vào đời Hán, lúc vừa được truyền
tới, nhằm thời ngài An Thế Cao. Thật đấy,
chẳng giả đâu! Hôm nay đă hết thời gian rồi,
chúng ta học tập tới chỗ này.
Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
phần 1
hết
[1] Thích Ca Phổ do ngài Tăng Hựu soạn
vào đời Lương, nội dung trích dẫn rộng
răi các kinh điển Đại và Tiểu Thừa, ghi chép
lịch sử thị tộc Thích Ca và sự tích của
Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng như sự kiện kể từ
sau khi đức Phật nhập diệt cho đến thời
A Dục Vương. Do bộ này viết hơi rườm
rà nên đến đời Đường, ngài Đạo
Tuyên viết tác phẩm Thích Ca Thị Phổ ngắn gọn
hơn.
Thích Ca Phương Chí gồm hai quyển,
do ngài Đạo Tuyên soạn vào năm Vĩnh Huy nguyên niên
(650) đời Đường, ghi chép các khu vực có Phật
giáo lưu truyền, diễn biến truyền thừa Phật
giáo theo từng thời kỳ, kể cả những chi tiết
về núi Tu Di, tứ bộ châu, các tuyến đường
trọng yếu tại Trung Ấn, tiểu sử của
mười sáu vị tăng Trung Hoa sang Ấn Độ cầu
pháp, cũng như các sự kiện Phật giáo trong quá
tŕnh truyền thừa từ Ấn Độ sang Trung Hoa.
[2] Tứ đại lạt-ma là bốn vị sư trưởng cao cấp
nhất theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng và Mông
Cổ, gồm: Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama, ta thường
đọc trại thành Đại Lai Lạt Ma,
nhưng người Tây Tạng thường gọi Ngài bằng
danh xưng Gyalwa Rinpoche, Kundun hay Yishin Norbu), Ban Thiền Ngạch
Nhĩ Đức Ni (Panchen Erdeni, Ban Thiền Lạt Ma), Triết
Bố Tôn Đan Ba (Jetsundampa) và Chương Gia Hoạt Phật
(Lcang-skya Hutugtu, đôi khi viết là Janggiy-a qutuγ-tu hoặc
Changkya Khutukhtu). Trong bốn vị này, danh xưng Quốc
Sư của Đại Lai Lạt Ma chỉ là mỹ hiệu
phong tặng, nhà Thanh nhiều lần chèn ép Đại Lai Lạt
Ma rất tệ hại, chỉ có ngài Chương Gia là
được trọng vọng, tôn kính đúng thân phận
quốc sư.
[3] Mi chú là viết lời chú thích ở
đầu mỗi trang.
[4] Hào là một vạch liền hay đứt,
mỗi một quẻ trong kinh Dịch gồm sáu vạch, tức
là hai quẻ đơn chồng lên nhau. Quẻ Khiêm có tên gọi
đầy đủ là Địa Sơn Khiêm, gồm quẻ
Khôn chồng lên quẻ Cấn, phần
Hào Từ (giải thích ư nghĩa của mỗi Hào trong một
quẻ) đều giải thích cả sáu Hào của quẻ
Khôn với ư nghĩa tốt đẹp, cả sáu câu đều
có chữ Cát. Chẳng hạn, hào thứ nhất được
giải thích như sau: “Khiêm khiêm
quân tử, dụng thiệp đại xuyên, Cát”. Theo các
nhà chú giải, câu này phải hiểu là: Bậc quân tử
khiêm tốn, có trí huệ, nên có thể tu thân, tề gia, trị
quốc, b́nh thiên hạ, giống như có chiếc thuyền
vững chăi có thể vượt sông to sóng cả an toàn, nên
bảo là tốt lành.
[5] Mười ba tông phái của Phật
giáo Nhật Bản là 1) Hoa Nghiêm Tông (do Lương Biện
sáng lập). 2) Thiên Đài Tông (do Tối Trừng sáng lập).
3) Pháp Tướng Tông (do Đạo Chiêu sáng lập). 4) Luật
Tông (do Giám Chân sáng lập). 5) Lâm Tế Tông (do Vinh Tây sáng lập).
6) Tào Động Tông (do Đạo Nguyên và Oánh Sơn sáng lập).
7) Hoàng Bá Tông (do Ẩn Nguyên Long Kỳ sáng lập). 8) Nhật
Liên Tông (do Nhật Liên sáng lập). 9) Dung Thông Niệm Phật
Tông (do Lương Nhẫn sáng lập). 10) Thời Tông (do Nhất
Biến sáng lập). 11) Tịnh Độ Tông (do Pháp Nhiên
sáng lập). 12) Tịnh Độ Chân Tông (do Thân Loan sáng lập).
13) Chân Ngôn Tông (do Không Hải sáng lập). Tuy có mười
ba tông, nhưng nếu xét đến pháp môn hành tŕ và kinh
điển chánh yếu làm chỗ y cứ th́ chỉ có bảy
tông là Hoa Nghiêm (Hoa Nghiêm Tông), Thiên Thai (Thiên Đài Tông, Nhật
Liên Tông), Duy Thức (Pháp Tướng Tông), Luật Tông, Thiền
Tông (Lâm Tế, Tào Động, Hoàng Bá), Tịnh Độ
(Dung Thông Niệm Phật Tông, Thời Tông, Tịnh Độ
Tông, Tịnh Độ Chân Tông) và Mật Tông (Chân Ngôn Tông).
[6] Chữ Khí Tượng ở đây không
có nghĩa là thời tiết mà có nghĩa là bối cảnh,
t́nh huống chung.
[7] Chùa Quang Hiếu ở thủ phủ Quảng
Châu, tỉnh Quảng Đông. Chùa này rất cổ, nơi
này vốn là nhà cũ Triệu Kiến Đức, cháu nội
của Nam Việt Vương Triệu Đà (cha của Trọng
Thủy, bố chồng công chúa Mỵ Châu). Thời Tam Quốc,
đô úy Ngu Phiên do bị Ngô Vương Tôn Quyền đày
xuống Quảng Châu, đă mở rộng nơi này thành chỗ
dạy học. Sau khi ông ta chết, người nhà sửa dinh thự của Ngu Phiên thành
chùa, đặt tên là Chế Chỉ Tự. Măi đến thời
Đông Tấn, khi ngài Đàm Ma Da Xá sang Quảng Châu hoằng
pháp, đă xây chánh điện rộng hơn. Đến
đời Tống, chùa được đổi tên thành
Báo Ân Quảng Giáo Tự. Đến niên hiệu Thiệu
Hưng 21 (1151) đời Tống, mới đổi thành
Quang Hiếu Tự và tên này dùng măi đến hiện thời.
Dưới đời Lương thời Nam Bắc Triều,
sa môn Trí Duợc của Ấn Độ đă trồng một
cây Bồ Đề tại giới đàn của chùa này và
huyền kư: “Sau này sẽ có một vị nhục thân
Bồ Tát thọ giới tại đây”. Lời huyền kư
này ứng nghiệm vào trường hợp tổ Huệ
Năng.
[8] “Sĩ đại phu” là danh xưng phiếm
chỉ quan chức thời cổ, cũng như dùng để
chỉ những thành phần trí thức có danh vọng và
địa vị. Thoạt đầu, chữ Sĩ
được dùng để gọi những bầy tôi của
các vị khanh đại phu (quan chức cầm quyền lớn
nhất thời Thương - Châu). Về sau, Sĩ thành
danh từ chỉ chung những người có chức vị,
và gọi gộp chung là Sĩ Đại Phu. Về sau, chữ
Sĩ chỉ những người có học thức, có khí
tiết, được dùng lẫn với khái niệm “quân
tử”.
[9] Vương Gia Công là tiếng dân gian gọi
chung các vị thần thánh của Đạo Giáo hay thần
thánh theo tín ngưỡng cổ của dân gian.